Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA  

 

VĂN HÓA Á CHÂU

VÀ NHỮNG THÀNH KIẾN

VỀ BỊNH TÂM THẦN

 

BÁC SĨ THÁI MINH TRUNG

           

Cộng đồng Việt Nam chúng ta chưa hiểu rõ lắm về các bệnh tâm thần, và các vị bệnh nhân hoặc gia đình thường không muốn chấp nhận một định bệnh tâm thần. Mời quí độc giả đọc bài viết của Bác sĩ Thái Minh Trung, chuyên khoa Tâm Thần.

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

           

Vai trò của văn hóa trước khi khoa học phát triển

 

Mấy ngàn năm về trước, lúc con người còn sống trong những bộ lạc, văn hóa bắt nguồn từ những buổi hội họp các gia đình chung quanh lửa trại. Những người trong bộ lạc truyền cho nhau những kinh nghiệm họ tin tưởng giúp ích cho cuộc sống của đoàn thể. Những hành động nào không có lợi cho sự sống còn của đoàn thể được liệt vào taboo (hành động tối kỵ). Những thành viên có hành động taboo sẽ bị tù trưởng xử tội. Người đó có thể bị án tử hình hay bị đuổi ra khỏi bộ lạc.

Văn hóa là những gì một nhóm người tin. Những điều tin tưởng đó đôi khi không có căn bản khoa học. Có thể nói văn hóa là sự tin tưởng vào một tập hợp hành động hay cử chỉ nào đó được đoàn thể cho là đúng hay sai. Thí dụ như khi nói chuyện ta nhìn thẳng vào mặt người khác được coi là bất lịch sự ở văn hóa Á Châu. Ngược lại, ở văn hóa Tây Phương thì nhìn thẳng mặt là điều cần thiết để chứng tỏ lòng thành thật của mình. Văn hóa khác với tôn giáo ở chỗ tuy là một nhóm người tin cùng một điều như nhau nhưng mục tiêu của văn hóa là cuộc sống hàng ngày trong lãnh vực gia đình và xã hội chớ không đề cập đến tâm linh.

Văn hóa là những gì đứa trẻ học qua gia đình và xã hội từ nhỏ. Cái nhìn xuyên qua lăng kính của văn hóa sẽ dần dần biến thành “sự thật”. Trở lại thí dụ trên, “sự thật” của người có văn hóa Đông Phương là người đối diện với mình thật vô lễ khi họ nhìn thẳng vào mặt mình làm mình rất khó chịu. Nhưng khi ta sống ở văn hóa Tây Phương thì cái “sự thật” này sẽ không còn giá trị nữa. Nói một cách khác, giá trị của văn hóa bị giới hạn trong một nhóm người chấp nhận, tin và lưu truyền những giá trị đó.

Chức năng của văn hóa là một loại “ngôn ngữ ” của hành động giúp những quan hệ con người trong cùng một xã hội trở thành đơn giản. Thí dụ như khi gặp gỡ một người xa lạ ta chìa bàn tay ra để bắt tay họ. Chìa tay ra được hiểu là một hành động thân thiện mà không cần giải thích dài dòng qua lời nói. Hành động đó được nhóm người trong cùng văn hóa hiểu một cách như nhau như là một dấu hiệu thân thiện chớ không phải là dấu hiệu sỗ sàng hay muốn tấn công họ. Tuy nhiên một số phụ nữ Á Châu quen với quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân” rất e ngại khi bắt tay người khác phái.

Nếu ta không thấy được sự tương đối của văn hóa thì sẽ rất khó chịu khi ta là người tị nạn phải sinh sống và giao thiệp hàng ngày với người khác văn hóa của ta. Đây cũng là nguồn gốc của biết bao nhiêu xung đột gia đình (familial conflict) khi phụ huynh bắt con em mình hoàn toàn theo văn hóa chính gốc của mình, trong lúc đứa nhỏ bị áp lực của bạn bè (peer pressure) để theo những phong tục của dân bản xứ, nơi mà nó hiện sinh sống.

 

Văn hóa và chính trị

           

Khi xã hội phát triển phức tạp hơn, những bộ lạc sống chung với nhau tạo thành xã hội. Chính trị là những giải pháp để cai trị một số đông người. Nói một cách đơn giản, những khác biệt của những đường lối chính trị là ở mức độ của đa số (quần chúng) có thể làm thay đổi guồng máy của xã hội hay không. Ở những chế độ độc tài thì nhóm thiểu số cầm đầu và nhóm đa số không có tiếng nói trong guồng máy chính trị phải chịu sống khổ cực làm lợi cho nhóm thiểu số. Nếu họ lên tiếng phản đối thì sẽ bị trừng phạt. Còn ở những chế độ dân chủ thì nhóm đa số có nhiều quyền hành hơn và họ có thể bầu những người họ tin tưởng để đại diện cho họ cầm quyền.

Khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam ta thấy rằng nước ta bị lâm vào trường hợp đầu tiên nhiều hơn. Khi người dân không có quyền quyết định cho tương lai của họ thì cách chọn lựa duy nhứt của họ là chịu đựng để cố gắng đáp ứng với hoàn cảnh khó khăn chung quanh. Những quan niệm khuyến khích người dân chịu đựng sẽ được dễ thâu nhập vào văn hóa. Những điểm đáng lưu ý của văn hóa Á Châu mà ta thấy được là quan niệm về “định mệnh an bài”, ta phải chịu đựng “trả nghiệp” chừng nào hết “nghiệp” thì ta mới sung sướng được, ta phải cần cù làm việc, lười biếng sẽ bị “làng xóm chê cười” hay “ông bà cha mẹ ăn ở hiền lành để đức lại cho con cháu” (mặc dù trong cuộc sống hiện tại ông bà hay cha mẹ chưa hưởng đức được).

Có thể nhóm thiểu số cai trị đa số muốn dân chúng tin vào định mệnh để tránh những cuộc nổi loạn. Cũng nên nhắc lại, vào thời đó nhóm đa số không có phương tiện học cao hiểu rộng như nhóm thiểu số nên những quan niệm trên dễ phổ biến trong quần chúng. Những quan niệm đó có thể được rút ra từ tư tưởng Phật giáo và Lão tử giáo đã từng thịnh hành trong xã hội phong kiến thời xưa. Những tư tưởng Phật giáo và Lão giáo được biến đổi và bình dân hóa khi đem vào đời sống hàng ngày để phù hợp với nếp sống thời đó. Sau đó đạo Công giáo được gia nhập vào Việt Nam và một số tín đồ thường tin rằng: “Chúa/Ơn Trên đã xếp đặt cuộc đời của ta”. Vào thời điểm đó các thông tin khoa học rất hiếm, chưa có những thí nghiệm kiểm chứng và cũng không có internet như thời nay. Chỉ có một cách duy nhứt lưu truyền kiến thức là bằng miệng.

Dần dần những tư tưởng trên bị thấm nhuần vào tiềm thức dân tộc lúc nào không ai hay khi những quan niệm đó được cha mẹ truyền dạy cho con cái từ thế hệ này qua thế hệ kia như là một “sự thật” không chối cãi được. Đầu óc suy luận của trẻ em chưa được phát triển nên chúng dễ thâu nhập những gì phụ huynh tin là đúng. Những quan niệm đó dần dần được trở thành “sự thật” của văn hóa Việt Nam. Cái hữu dụng của chúng là giúp dân gian chịu đựng đời sống khổ cực, xoa dịu phần nào nỗi khổ của người dân sống trong một chế độ bất công, làm nhiều hưởng ít. Ngoài ra nước ta còn có chiến tranh xảy ra triền miên kèm theo những nỗi khổ của chết chốc và mất mát nửa, cho nên “chịu đựng” là một cách đáp ứng với cuộc sống.

 

So sánh với văn hóa Tây Phương

 

Khác với văn hóa Đông Phương đề cao tinh thần tập thể, phải nể trọng những người có quyền thế (Trời, vua, cha, và chồng), văn hóa Tây Phương phóng khoáng hơn, đề cao tinh thần cá nhân tự lập. Văn hóa Tây Phương còn đề cao sư hiểu biết khoa học và lý luận. Trong học đường học trò có quyền lý luận với ông thầy để chứng minh lập luận của mình đúng. Học sinh không bị bắt buộc phải hoàn toàn nghe theo ý ông thầy mình mà được khuyến khích phát triển những ý nghĩ mới mẻ. Trong y khoa, người bịnh nhân có quyền hạch hỏi cách trị bịnh của bác sĩ, tìm hiểu về căn bịnh của mình và những loại thuốc mình uống.

Cái khó khăn của người chuyển từ văn hóa này sang văn hóa kia là ngoài sự khác biệt ngôn ngữ hay màu da, họ gặp rất nhiều khó khăn về tình cảm khi cái “sự thật” của họ không đáp ứng được với “sự thật” của dân bản xứ. Nói một cách khác những giá trị hay phong tục mà họ cho là đúng không được xã hội mới hoàn toàn chấp nhận. Họ cảm thấy bị cô lập và đôi khi có cảm tưởng rằng họ bị phân biệt chủng tộc, không được người dân bản xứ tôn trọng. Những hiểu lầm đáng tiếc thường hay xảy ra khiến sự hội nhập xã hội rất khó khăn. Thí dụ là khi người đó đi phỏng vấn tìm việc làm, không nhìn thẳng mặt ông chủ sở và bị hiểu lầm là không thành thật nên không được nhận.

Những chi tiết khác biệt của phong tục mới nhìn không đáng kể nhưng sẽ đem lại hậu quả không tốt cho người nhập cư (immigrant). Cái khó khăn là ít có ai nhận ra những khác biệt này vì những hành động và ý nghĩa của phong tục được coi là tự nhiên. Chúng ta đã học từ nhỏ những phong tục đó và chúng trở thành một thói quen (second nature). Ông A không nhìn mặt ông chủ là một hành động tự nhiên chứng tỏ sự lễ độ mà có thể ông ta không ý thức được, diều ông ta ý thức là cảm giác khó chịu khi nhìn thẳng mặt ông chủ. Cũng có thể ông chủ sở quyết định không mướn ông A vì cảm giác chung về ông A không tốt, chớ ông ta cũng không ý thức được là vì lý do ông A tránh nhìn thẳng mặt mình.

Chính vì thế học hỏi về văn hóa người bản xứ có tầm quan trọng không kém gì học ngôn ngữ mới. Nó giúp ta tránh được những mâu thuẫn trong xã hội. Ngoài ra ta cũng tránh được phần nào mâu thuẫn trong gia đình khi phải đối diện với những khó khăn trong việc giáo dục con cái. Khi ta hiểu được cả hai văn hóa thì ta có nhiều điểm tựa hơn trong việc giáo dục con cái. Ta dễ tìm đến biện pháp dàn xếp bằng cách thỏa hiệp (compromise). Con cái ta dễ nghe lời ta hơn vì ta thông cảm và hiểu được phần nào nếp sống của chúng.

 

Văn hóa và bịnh tâm thần

           

Thuở xưa người ta tin rằng con người có thể làm chủ hoàn toàn hành động và suy nghĩ của mình bằng ý chí (will). Người “quân tử ” là người tốt có thể khuất phục được những tình cảm “nhỏ mọn” như ganh tị, giận dữ, hay tham lam. Kẻ “tiểu nhân” là người theo những đòi hỏi hèn hạ của bản năng, không làm chủ được chính mình. Nhà triết gia Pháp Descarte (1596-1650) đã từng nói: “Je pense donc je suis” (Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện diện). Triết lý của ông ta là suy luận có thể dẫn đến chân lý. Cái quan niệm khoa học thời đó là con người hoàn toàn làm chủ được suy nghĩ và hành động của mình qua khả năng suy luận và qua ý chí.

Quan niệm này tồn tại một thời gian đến khi nhà phân tâm học Freud (1856- 1939) phát hiện ra con người có tiềm thức (id, unconscious). Con người không phải lúc nào cũng làm chủ được những dục vọng của mình. Đôi khi họ còn tìm cách tự lừa dối mình để thỏa mãn những dục vọng của mình. Thí dụ như đổ thừa cho người khác dụ dỗ mình hay lừa gạt mình (projection). Họ còn dùng lý trí để biện hộ cho dục vọng của mình (rationalization). Đa số không ý thức được những phản ứng tâm lý đó mà phải qua nhiều khóa (session) phân tích tâm lý mới nhận ra. Nói tóm lại tình cảm núp bóng dưới lý trí điều khiển cuộc đời con người mà ít người nhận ra được. Cũng vì thế mà tánh tình rất khó thay đổi bằng lý trí. Ta hiểu được mà không thực hành được. Nếu điều ngược lại là sự thật (lý trí lèo lái tình cảm) thì trên thế giới này sẽ ít có chiến tranh. Hiện nay điều duy nhứt ngăn cản thế chiến không phải là lý trí mà chính là sự lo sợ chết chốc hàng loạt do vũ khí nguyên tử gây ra.

Bịnh tâm thần là những căn bịnh mà bịnh nhân có những suy nghĩ hay hành động bất bình thường. Gia đình Á Châu thường rất hổ thẹn với những hành động này. Gia đình thường la rầy bịnh nhân vì hiểu lầm là bịnh nhân không chịu dùng ý chí để thay đổi những hành động bất bình thường. Mặt khác phụ huynh rất hổ thẹn (shame) vì họ nghĩ rằng họ không dạy dỗ con cái đúng mức mới ra nông nỗi này. Một số khác lại nghĩ rằng bịnh tâm thần là một tai họa do gia đình ăn ở không phước đức, người con mới bị như vậy. Gia đình thường giấu người bịnh tâm thần trong nhà vì sợ “làng xóm chê cười”. Thông thường họ chỉ đem bịnh nhân đi khám bác sĩ khi bịnh nhân có những hành động đập phá nhà cửa.

Bịnh tâm thần trở thành một điều kỵ (stigma) trong xã hội. Xã hội có thành kiến với những người bị bịnh tâm thần vì nhóm người này không có những hành động và suy nghĩ bình thường mà xã hội mong đợi. Thông thường những gì khác lạ thường bị xã hội không chấp nhận vì nó hay mang tính chất nguy hiểm. Bịnh nhân còn làm rối loạn cái trật tự mà văn hóa đặt ra. Những triệu chứng bịnh tâm thần rất khó được kềm chế khi bịnh không được trị liệu. Thí dụ như người bịnh tâm thần hỗn xược với gia đình, không chịu tắm rửa, không gìn giữ ý tứ khi đi ra ngoài đường. Điều này gây rất nhiều khó khăn vì văn hóa Đông Phương đề cao việc cá nhân phải là một thành viên tốt của gia đình và xã hội. Khi thành viên không làm được phận sự của mình thì những người có bổn phận đầu tiên giáo dục thành viên đó (tức là gia đình) bị khiển trách.

 

Những hiểu biết mới về bịnh tâm thần

           

Chỉ khoảng 5 năm trở lại gần đây, với sự phát triển của ngành quang tuyến neuroimaging, dùng những kỹ thuật hiện đại như fMRI, PET scan để quan sát những hoạt động của não bộ, các khoa học gia mới hiểu nhiều hơn về cơ chế hoạt động của tâm lý và triệu chứng của những bịnh tâm thần. Nói chung, hầu hết những bịnh tâm thần có cơ sở sinh lý liên quan đến sự mất cân bằng những hóa chất trong não bộ (neurotransmitter).

Ngày nay khoa học hiểu rằng Serotonin bị mất quân bình gây ra bịnh trầm cảm (depression), Dopamine hoạt động quá độ ở bịnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), Acetylcholine không hoạt động đúng mức ở bịnh lãng trí Alzheimer. Khi ta dùng thuốc điều hòa những hóa chất trên thì triệu chứng bịnh tâm thần được thuyên giảm. Sau khi được điều trị và khi chụp hình trở lại thì ta thấy có sự biến đổi ở hình chụp. Rất tiếc là những kỹ thuật chụp hình kể trên còn rất mới và cần được điều chỉnh nên chưa được áp dụng một cách rộng rãi trong việc chẩn đoán và trị bịnh.

Điều quan trọng nữa là chúng ta thường có những quan niệm sai lầm về “tánh tình” của người bịnh tâm thần. Thí dụ như ở bịnh trầm cảm, người bịnh được cho là có “tánh tình lười biếng, không năng động”. Ít người hiểu rằng bịnh nhân hết sức cố gắng nhưng không thể nào vượt qua được cảm giác chán chường nặng nề do bịnh gây ra. Nhưng khi uống thuốc và bịnh thuyên giảm rồi, mặc dù vẫn còn uể oải trong người nhưng họ có khả năng vượt qua khỏi sự thụ động và bắt đầu tham gia vào sinh hoạt gia đình và xã hội. Như thế cũng oan cho bịnh nhân nếu ta gán cho họ những “tánh xấu” mà thật sự đó là những triệu chứng của bịnh. Những triệu chứng này sẽ biến đổi một cách tốt đẹp khi trị liệu đúng mức.

Khác với sự lo lắng của nhiều người, thuốc tâm thần không có khả năng biến đổi tánh tình bịnh nhân trở thành một người khác lạ. Những loại thuốc này chỉ có khả năng làm giảm triệu chứng bịnh giúp bịnh nhân thoát khỏi cơn bịnh. Khi hết bịnh, họ sẽ được tự do chọn lựa hướng đi cho cuộc sống mình. Tâm lý trị liệu kèm với trị liệu thuốc men giúp bịnh nhân hồi phục nhanh hơn. Tâm lý trị liệu đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp đỡ bịnh nhân bỏ những thói quen xấu do cơn bịnh gây ra và giúp họ chọn những quyết định đúng đắn cho cuộc sống mình. Tôn giáo cũng đóng một vai trò quan trọng giúp bịnh nhân phát triển đời sống tâm linh để tìm hạnh phúc trong cuộc sống.

 

Tóm lại

Lúc mà khoa học chưa phát triển hoặc những phương tiện truyền thông chưa có, văn hóa đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức và cách cư xử đúng đắn (phong tục). Vai trò của văn hóa là giữ trật tự trong gia đình và xã hội. Những kiến thức văn hóa giúp phụ huynh ở các thế hệ trước dạy dỗ con cái. Vào cuối thế kỷ 20 và thế kỷ 21, hệ thống truyền thông qua internet và qua vệ tinh phát triển vượt bực. Kiến thức thay đổi rất nhanh, kèm theo đó những sản phẩm khoa học của xã hội thay đổi một cách chóng mặt. Sự đổi mới này như một cuồng phong làm những phong tục và những gì thế hệ trước tin tưởng biến đổi một cách nhanh chóng. Những quan niệm về tính tình và tâm lý cũng theo đó mà thay đổi.

Sự hiểu biết chín chắn về bịnh tâm thần là một điều cần thiết trong xã hôi tân thời. Bịnh tâm thần không khác gì bịnh thể xác, có nền tảng sinh lý là sự mất quân bình các hóa chất tiết ra ở não bộ. Sự khác biệt là bịnh tâm thần ảnh hưởng cách suy nghĩ và hành động của bịnh nhân nên đã tạo nhiều hiểu lầm. Khi bịnh này xảy ra cho những người ở trong một xã hội đề cao trật tự và phận sự thì bịnh nhân sẽ mắc phải nhiều thành kiến của gia đình và xã hội. Những thành kiến này ngăn cản căn bịnh được trị liệu đúng mức. Hơn bao giờ hết sự giáo dục quần chúng về sức khỏe tâm thần rất quan trọng vì đa số bịnh tâm thần đều có thể trị được bằng thuốc men và tâm lý trị liệu. Khi bịnh tâm thần không được điều trị, chẳng những gây căng thẳng cho bịnh nhân mà còn cho cả những người sống chung quanh bịnh nhân nữa.