Con chồn và con gà trống
TÚ LẮC
Theo Quốc Văn Giáo Khoa Thư
Một con chồn trong cơn đói ngáo
Tìm mồi đang sục sạo đó đây
Bỗng đâu trên một cành cây
Có con gà trống lẻ bầy gáy vang
Trông thấy thịt chồn càng háo hức
Bụng cồn cào muốn “xực” liền tay
Thế nhưng gà đứng trên cây
Cho nên chồn chửa ra tay được nào
Chồn tinh quái mưu sâu vốn sẵn
Bèn nịnh rằng: “Bài bản chao ôi!
Giọng đâu có giọng tuyệt vời
Thanh âm ngọt lịm trên đời không hai!
Nếu tôi nhớ không sai, thuở ấy
Cụ nhà ta còn gáy hay hơn
Bởi vì mỗi lúc há mồm
Nhắm đôi mắt lại giọng còn ngân vang
Gà nghe nói nở gan nở ruột
Nhưng e dè nhắm một mắt thôi
Chồn khen nắc nỏm một hồi
Ôi, hay, hay quá, tuyệt vời! Đúng chưa
Nhưng bác nhắm còn chừa một mắt
Nhắm cả hai thì chắc hay hơn
Gà đâu biết bụng dạ chồn
Nhắm luôn hai mắt, há mồm nhưng... nhưng...
Đợi có thế chồn tung mình nhảy
Cắn chết gà, mày gáy nữa thôi?
Cho hay ngọt mật chết ruồi
Toi đời vì bởi nghe lời sàm ngôn
Tinh ranh là thói của chồn!
Đi chỗ khác chơi
TÚ LẮC
Thiên hạ rằng thơ tớ cũng thơ
Có điều thơ tớ loại tay mơ
Sân Đào chỉ đáng tay hầu đóm
Cửa Lý (*) nên chân chú chạy cờ
Thơ cóc lem nhem được mấy bài
Cũng đòi ra mắt với ra tai
Cái danh "thi sỡi" sao mà khoái
Nên Tú nhà tôi cũng học đòi...!
Hỏi vợ, vợ rằng bố nó ơi
Thi đàn đâu phải chỗ ông ngồi
Thương ông, tôi bảo cho mà biết
Biết phận thì đi chỗ khác chơi
Dăm vận thơ xoàng bịp được tôi
Dễ chi qua mắt được bao người
Khuyên đừng ra mắt ra tai nữa
Chỉ tổ làm thiên hạ khổ thôi
Con mụ này sao quá dở hơi
Thơ ta mà dám bảo thơ tồi
Này này, tớ bảo cho mà biết
Chê dở thì nay cũng dở... chơi
Sức mấy mà chơi với chả chơi
Một lèo đã thở chẳng ra hơi
Thôi đừng dọa nữa, đừng hăm nữa
Sức ấy tôi đi biết tỏng rồi!
(*) Đào Tiềm - Lý Bạch
Ba Con Khỉ
“Điếc, Mù, Câm”
NGUYÊN-DZUY
Triết mù, Mạnh điếc, Dũng câm luôn
Lãnh đạo Trung ương rõ một tuồng
Gốp ý Đảng ngu là bịt miệng
Thằng mù, thằng điếc, thằng bất lương
Ba thằng chụm lại trò múa rối
Lão chủ phen nầy rõ mặt tường
Bờ đá núi băng lao thẳng tới
Canh tân đất nước qúa đau thương
Ăn chơi trụy lạc bậc thầy tàu vua
Phần hơn chẳng chịu kém thua
So cùng Tây hậu khi xưa …sao tầy
Ba mươi hai năm có dư đầy
Gân cốt (dân) lỏng lẻo lũ nầy vẫn tham .
Mặt khỉ, mình người, nhảy múa tung
Bộ tam của đảng giống thằng khùng
Thằng câm thằng điếc, thằng không thấy
Lãnh đạo thế nầy phải cáo chung.
Tháng 4 uất hận 30-4-07
Nguyên-Dzuy
Bằng cấp làm chi,
hỡi các quan!
ĐẢ CẨU BỔNG
"Chánh án tòa tối cao có bằng thật hay bằng giả?"
Bằng cao nước Việt thiếu gì
Cái bằng tiến sĩ, thi thì dễ thôi
"Thông minh" nhất đảng viên rồi
Một năm bốn lớp mấy hồi leo cao
Bằng một "chống Pháp" úi chao
Bằng hai "chống Mỹ" dễ nào có đâu
Khắp trên thế giới hoàn cầu
"Anh hùng" như thế dễ dầu kiếm không
Bằng ba chui rúc trong rừng
Bằng tư lội suối, vượt sông, trèo đèo
Bốn bằng to ấy đem treo
Thì trong thế giới ai "nèo" hơn ông
Cần gì thắc mắc lung tung
Bằng này bằng nọ cũng không hay mà
Ông làm chánh án quan tòa
Ông ngồi ông đọc, người ta viết rồi
Cần chi mớ lý luận tồi
Lăng nhăng lít nhít, lôi thôi dài dòng.
Bằng nào hơn bằng tiến sĩ!
ĐẢ CẨU BỔNG
"Chánh án tòa tối cao có bằng thật hay bằng giả?"
Dối gian từ ở quê nhà
Dối gian tiếp tục khi ra nước ngoài
Dối gian đã có bản bài
Chuyện quân Hồ Cộng, chuyện dài nước Nam
Việt Nam chế độ Hồ gian
Cho nên trên dưới tham tàn bất nhân
Đất đai chiếm phứa của dân
Nhơn hơn bán hết chẳng cần sỉ liêm
Đô la đầy túi cho nên
Xây nhà dựng cửa chi tiền con đi
Sang Tây, sang Úc, Huê Kỳ
Thói gian lại tiếp, còn gì nói đây
Mang danh bằng Úc, bằng Tây
Mà "quay", mà "cóp" cho đầy bài thôi
Thảo nào! Tiến sĩ nước tôi
Như ruồi như nhặng trời ơi bằng gí
Bằng gì mà chẳng cần thi
Đem tiền đấm mõm bằng gì cũng xong
Lềnh khênh tiến sĩ bà ông
Để khoe nay đã nên ông, hết thằng!
Hết thằng cắt cỏ lăng nhăng
Chăn trâu, thiến lợn, ai bằng lũ ta?
Bằng cao nhất nước ý mà
Lên xe xuống ngựa, vào ra huy hoàng
Là nhờ có đảng Cộng gian
Lưu manh Hồ Chí xây đàng tiến lên
Tiến lên càng lúc ngu thêm
Cái khung "Pắc Bó" làm nền muôn năm.
Bình Định Vương Lê Lợi
VŨ LANG
Mười năm gian khổ chống xâm lăng
Áo vải Lam Sơn nhân kiệt hùng
Quyết chiến quân Minh bình định nước
Điều binh Lê Lợi lập kỳ công
Lê Lai cứu chúa liều mình chết
Nguyễn Trãi phò vua mưu kế thông (1)
Phá giặc mười năm gian khổ thật
Giỏi thay dân Việt quả anh hùng !
(1)Nguyễn Trãi đã bí mật dùng mật ong viết trên lá cây
“ LÊ LỢI VI QUÂN, GUYỄN TRÃI VI THẦN” đàn kiến
ngửi thất mật gậm nhấm trên những nét chữ hiện rõ
“ LÊ LỢI I QUÂN, NGUYỄN TRÃI VI THẦN” rồi cho
quân sĩ phao lên rằng có thần linh báo trước ho biết.
một đồn trăm, trăm đồn ngàn làm quân sĩ nức lòng
hăng say đánh giặc, nhân dân giúp sức vì thế quân ta
đã chiến thắng quân Minh.
Buồn Đau Bể Dâu
TRẦN NGUYÊN ANH
Chợt quên, chợt nhớ, chợt buồn đau
Sống trải bao Triều mấy bể dâu
Thất thế tướng công ngồi cúi mặt
Gặp thời thằng mõ đứng vênh râu
Ba-đời-ở-đợ ăn cơm nguội
Bảy kiếp làm thuê nhặt bã trầu
Lý lịch khai man rằng quá khứ:
"Ông làm Tuần phủ, bố quan Châu"
Câu đố
VŨ LANG
CÀNG nào CÀNG nhỏ CÀNG to
CÀNG vặn CÀNG vẹo CÀNG co quắp người
CÀNG kéo CÀNG ngắn ai ơi
Thun vào CÀNG thấy CÀNG dài thêm ra!
Giảng:
CÀNG cua CÀNG nhỏ CÀNG to
CÀNG vặn ốc vào CÀNG vẹo CÀNG lâu
CÀNG kéo thuốc, CÀNG ngắn mau
Dây thun CÀNG cũ CÀNG mau thêm dài
Chơi
TÚ LẮC
Viết sách mà chơi, viết sách chơi
Mấy thiên hồi ký bút vung trời
Chuyện không nói có ma nào biết
Khoe mẽ toàn là nặng "cái tôi"!
Lập hội mà chơi, lập hội chơi
Làm ông hội trưởng nhất trên đời
Hội viên đã có con cùng vợ
Thỉnh thoảng họp hành nói dóc chơi!
Thơ thẩn mà chơi, thơ thẩn chơi
Tiếm danh thi sĩ khoác lên người
Dăm phần thơ cóc, thơ con cóc
Cứ tưởng rằng ta cậu của trời
"Ra mắt" mà chơi, ra mắt chơi
Có hai con mắt để trông đời
Nay ra, mai lại thêm ra nữa
Hết mắt nên đời hóa tối thui!
Vui thú làm sao cái cuộc đời
Nên chi thiên hạ rủ nhau chơi
Chơi cho lăn lóc cho bằng thích
Cho dẫu mai sau để tiếng cười!
Loạn loạn nghĩ mà chán quá thôi
Ớn còn hơn mỡ ngán hơn xôi
Thôi thôi mặc xác ly cùng loạn
Vén áo lên mà gãi... rốn chơi!
Chiến Cuộc
(thể thơ theo mẫu tự C)
VŨ LANG
Cần chi cải chính chiến công
Cầm cương, cưỡng chiếm coi chừng cuộc chơi
Chiến chinh, chệnh choạng, cợt cười
Chóng chầy, chắc chắn cuộc chơi cuốn cờ ? ?
Chiến Sĩ Vô Danh
THA NHÂN
Cả đời vì nước đã hy sinh
Chẳng nghĩ thua hơn đến phận mình
Giết giặc xả thân nơi hỏa tuyến
Diệt thù vong mạng chốn điêu linh
Một lòng bảo quốc son son sắt
Một dạ an dân nghĩa nghĩa tình
Tận tụy âm thầm không kể biết
Cả đời vì nước đã hy sinh
Chuyện Đời (I)
(thể thơ song điệp)
VŨ LANG
Cần cần, kiệm kiệm chẳng hơn ai,
Phất phất, phơ phơ vẫn đủ sài.
Ái ái, ân ân, rồi cũng chán;
Hờn hờn, giận giận, mất niềm vui?
Danh danh, lợi lợi, người mong muốn,
Nghĩa nghĩa, nhân nhân, kẻ dạy đời.
Khóc khóc, cười cười, vì thế cuộc !
Lo lo, nghĩ nghĩ, lúc nào nguôi ? !
Chuyện Đời (II)
(thể thơ song điệp)
VŨ LANG
Chồng chồng,vợ vợ chỉ vì tiền
Nghĩa nghĩa, tình tình đến đảo điên
Mẹ mẹ, con con lo tính toán
Em em, chị chị lại bon chen.
Ganh ganh, tức tức mình không có
Họ họ, hàng hàng cũng nghét ghen
Sướng sướng, vui vui đâu chẳng thấy
Buồn buồn, tủi tủi quá ưu phiền
Chuyện Đời (III)
(thể thơ song điệp)
VŨ LANG
Sai sai, đúng đúng biết ai đây?
Được được, thua thua phải thử tài
Trí trí, mưu mưu dù có giỏi
Thời thời, thế thế chửa vần xoay
Khôn khôn, dại dại khôn thành dại !
Dở dở, hay hay dở hóa hay !
Trách trách, chê chê người tội quá
Ân ân, oán oán trả rồi vay?!
Con Hồng Cháu Lạc
VŨ LANG
Chúng ta con cháu đấng TIÊN LONG
Dù Bắc, Trung, Nam vẫn một dòng
Gắng sức giữ gìn ngôi QUỐc TỔ
Ra công bồi đắp giải non sông
Con HỒNG cháu LẠC chung dòng máu
Nước VIỆT nhà NAM một tổ tông
Bao phen đánh đuổi quân xâm lược
Rạng rỡ non sông giống LẠC HỒNG.
Cò Quăm
CHU VƯƠNG MIỆN
Thằng cò là thằng cò quăm
Mày không lo vợ mày nằm với ai
Mày đi khuya đến sáng mai
Mày đi kiếm vợ hay ai chờ mày
Ruộng đồng thẳng cánh mà bay
Mà mày lỡ cỡ về đây mổ ruồi
Quắm à, thế thế thì thôi
Lơ mơ cũng đến bốc hơi xanh dờn
Một cò một vạc một nông
Ba con ngỏm cả giữa đồng thế kia
Công an mà đánh công dân
ĐẢ CẨU BỔNG
"Việt Nam: công an dùng dùi cui đánh gục một
nữ sinh trên đường phố"
"Xương sống chế độ": công an
Đám "quân Tam Phủ" hung tàn bấy nay
"Dân oan" chúng đập thẳng tay
Dân thường chúng "khệnh" bằng chày dùi cui
Nhắn Lê Hải Yến, cô ơi
Công an Hồ Cộng, "con Trời" biết không?
Họ Chu tên gọi Phương Đông
Dùi cui hắn phạng ngang hông cổ này
Thân hình cô gập xuống ngay
Sống soài mặt đất, phủi tay Đông cười
Khắp trong thế giới loài người
Công an Hồ Cộng đám ruồi bất nhân
Bọn này đâu khác hung thần
Xanh lòng, đỏ vỏ, bất nhân bất nghì.
Dạy con tại Mỹ
HOÀNG YÊN KHANG
(Tin “Bé gái gốc Việt 13 tuổi chết vì
bị ép uống rượu”)
Hoa Kỳ nước cực văn minh
Nhưng về đạo đức thật tình sút sa
Nhà trường dạy đủ thứ mà
Chẳng hề dạy trẻ trọng cha mẹ mình
Mười ba tuổi, nổi loạn kinh
Chửi cha mắng mẹ: “Tôi khinh các người!
Tự do sao cấm tôi chơi?
Đêm ngày cũng vậy, kệ tôi sống mà!
Fuck! Shit! hùng hổ tuôn ra
“You! sonofabitch” nghe già mấy niên
Biết ai tỏ nỗi oan khiên
Biết ai trút nỗi buồn phiền, xót xa
Lỡ dùng roi vọt, chết cha!
Gọi 9-1-1 mẹ cha ủ tờ!
Không cho răn dạy trẻ thơ
Mắng la thì bảo “vợc-bờ ơ-biuz”
Rọt voi thì khỏi nói nhiều
Mẹ cha thêm tội trời ơi, tội gì?
“Ờ-biuz fí-zi-cơ li“
Lên sở xã hội học gì bà ơi
Thưa rằng học để biết tôi
Từ nay nhớ phải dùng lời khuyên răn
Rằng chớ roi vọt, cấm hăm
Phải dùng lời nhủ, tiếng răn nhẹ nhàng
Lỡ mà tiếp tục không ngoan
Thì thôi phải ráng, còn làm được chi
Máy tay ăn cắp tức thì
Tội cha mẹ gánh, ức chi quá trời
Đền tiền cả vốn lẫn lời
Nhân lên gấp bội, trời ơi giật mình!
Khóc thầm sao lại đẻ sinh
Đứa con “ngoại hạng” làm mình khổ đau
Nào ai hiểu được nỗi sầu
Làm cha mẹ vậy mà mầu như không
Đớn đau chôn chặt trong lòng
Ai mà hiểu nổi cái vòng đau thương
Từ nay trên sổ đoạn trường
Rõ ràng trăm mối trăm đường gánh oan
Muốn đi chơi, lại “ngủ lang”
Mẹ cha cũng phải đầu hàng mà thôi
Mười ba cái tuổi quá trời
Mà không cho dạy, thôi thời thua to
Nhiều cha mẹ Việt buồn xo
Ai mà biết được lắng lo của mình
Hoàng Yên Khang
(***@hotmail.com; địa chỉ IP: Hoa Kỳ)
Dân quyền
VŨ LANG
NHÂN quý từ tâm, tâm quý NHÂN
DÂN tình đoàn kết, kết tình DÂN
ĐỆ huynh tín nghĩa, nghĩa huynh ĐỆ
THẦN thánh tôn sùng, sùng thánh THẦN
TỔ quốc quang hưng, hưng quốc TỔ
QUÂN thần khả hữu, hữu thần QUÂN
ÁI nhân hữu dụng, dụng nhân ÁI
DÂN chủ quyền dân, dân chủ DÂN.
Đại vũ
VŨ LANG
Nắng cực trời mưa bão tới nơi
Đại du vẫn thích lái thuyền chơi.
Vẫy vùng rồng lộn phun phun nước,
Lẳng lặng cai dù ngóng ngóng trời.
Lác đác mưa sa làng Đại-Vũ
Ầm ầm sấm động đất Thiên-Lôi
Lộn lèo trái gió thuyền xa bến
Để vợ con chờ tội quá thôi!!!
Dựa hơi hùm
(thơ ngụ ngôn)
TÚ LẮC
Một con chó, chó trăm phần chó
Nương thân cầy một xó rừng thưa
Sống nhờ thịt thải xương thừa
Tháng ngày lây lất sớm trưa đỡ lòng
Tra gia phả thấy dòng nhà chó
Ông cha xưa có họ với hùm
Phải đâu nước lã người dưng
Nên lân la đến cửa hùm ỉ ôi:
"Tôi với cụ đâu người xa lạ
Có họ hàng, gia phả còn ghi
Chó tôi lòng vẫn nể vì
Nhưng lâu nay chẳng may khi đến hầu"
Hùm nghe nói gật đầu rồi bảo:
"Hãy đến đây nương náu cùng ta
Trong ngoài giữ việc quản gia
Dù sao đi nữa cũng là bà con
Chó nghe nói, mừng rơn trong dạ
Và sẵn sàng hầu hạ sớm hôm
Mỗi khi cùng chúa sơn lâm
Ra ngoài, chó cậy hơi hùm làm oai!
Chó trông thấy các loài muông thú
Sợ hùm đều tuân thủ luật rừng
Chó ngu cứ tưởng đâu rằng
Sợ mình, cứ hách xì xằng ra oai!
Hùm, một bữa ra ngoài nương rẫy
Rủi sa cơ mắc bẫy tử thần
Chó hèn hết chỗ nương thân
Cái thân chó Mực loại hoàn chó Mun
Lũ muông thú họp cùng nhau lại
Lôi chó ra hỏi tội... dựa hơi
Đánh cho một trận tơi bời
Kẻ thoi, người đạp tả tơi thân cầy
Đầu hàng, cho kéo... "cờ tây"
Đèo Ba Dội
HỒ XUÂN HƯƠNG
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét, tùm hum nóc
Bậc đá xanh rì, lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn chèo.
Đèo Ông Đói
Họa Thơ: VŨ LANG
Anh đèo, tôi đèo, nó cũng đèo
Còn thằng khỉ gió cứ đòi leo!
Cửa quan tham nhũng đầy nhan nhản
Nhà chứa phô bày lá mốc rêu!
Lúc lắc chày kình, chuông đánh thốc
Bơ phờ thân gái, lộn đường gieo!
Hỏi người hiểu biết không ai nói
Bụng đói, chân run vẫn phải chèo!!!
(Thơ họa: Vũ Lang)
Dỗi Xuân
TÂM HUYỀN
Hễ nhận thơ Xuân lại giật mình
Bóng câu cửa sổ nghĩ mà kinh
Sao nền dân chủ cầu chưa thấy
Để buổi qui hương hẹn lại đình
Đã biết kiếp người đâu bất tử
Càng sầu non nước chửa hồi sinh
Đôi khi lẩn thẩn không mừng Tết
Giận cúc, hờn lan, lẫy cả quỳnh
Giả trá
VŨ LANG
GIẢ câm, GIẢ điếc, GIẢ đò
GIẢ ngây, GIẢ dại, khù khờ GIẢ điên
GIẢ không biết, GIẢ vờ quên
GIẢ nhân, GIẢ nghĩa phải nên đề phòng
Hiếu tử
VŨ LANG
Đường đời vạn nẻo lắm gai chông
Bè bạn giao du tránh lỗi lầm,
Cha mẹ dưỡng sinh tình mẫu tử
Thầy cô giáo huấn nghĩa sư tôn
Hảo sinh bất sỉ lưong sư diện
Hiếu tử vô ưu nghiêm phụ tâm!
Gắng sức vun trồng: nhân, đức, hạnh.
Công danh hiển đạt rạng tông môn
Hỏi vợ
VŨ LANG
Cậy người HỎI vợ, HỎI dò
HỎI săn, HỎI đón, giả vờ HỎI thăm
HỎI vớ vẩn, HỎI lăng nhăng
HỎI tên, HỎI tuổi sợ lầm HỎI ai!?
Hội Hoa Xuân
VŨ LANG
Khai hội hoa xuân, hoa mãn khai,
Mai em về dự “Hội Hoa Mai”
Áo nhung hồng tím cài hoa áo,
Đài các kiêu sa trước tượng đài,
Thoảng ngát hương thơm làn gió thoảng,
Tươi màu hoàng yến đóa hoa tươi,
Nắng xuân bướm lượn bay vờn nắng,
Hài ngọc du xuân dạo gót hài.
Hưng Đạo Vương
VŨ LANG
Rạng danh dòng giống đấng TIÊN LONG
Thế giới anh hùng đệ nhất ông
Hội nghị DIÊN HỒNG dân quyết chí
Đại Vương HƯNG ĐẠO lập kỳ công
Ba lần MÔNG CỔ sang xâm chiếm
Duy nhất VIỆT NAM đánh bại vong
QUỐC TUẤN * lẫy lừng dân TỘC VIỆT
THOÁT HOAN nhục nhã giặc NGUYÊN MÔNG!
Trần quốc Tuấn : sinh năm-1226. mất năm- 1300.
thọ 74 tuổi.
Ngài hiển thánh đền thờ Ngài tại ĐỀN KIẾP BẠC.
Ngày giỗ 20 tháng 8
Khóc Non Sông *
VŨ LANG
SÔNG NÚI ngàn đời vẫn NÚI SÔNG
ÔNG đem dâng hiến thế sao ÔNG ?
ẢI QUAN, Bản Giốc, nhòa QUAN ẢI
ĐÔNG hải, Trường Sa, khóc biển ĐÔNG
CÓ NƯỚC, chẳng làm cho NƯỚC CÓ
KHÔNG NHÀ, dân khổ vẫn NHÀ KHÔNG
BIẾT bao nhục nhã dân còn BIẾT
ĐỒNG bọn âm mưu thuyết ĐẠI-ĐỒNG!
* Chữ đầu câu, cuối câu giống nhau
gọi là thể “Thủ Vĩ Đồng Từ”
Ló đuôi
TÚ LẮC
Tặng người ấy...
Một con cáo gian manh quỷ quyệt
Bị tẩy chay, sống biệt một nơi
Thừa lương, những buổi đẹp trời
Buồn tình cũng muốn rong chơi giải buồn
Nhưng khốn nỗi, tính chồn ba xạo
Bước ra ngoài kẻ nhạo người khinh
Vào ra thui thủi một mình
Thế mà cái tính tinh ranh không chừa
Một hôm nọ, tiết trời quang đãng
Đàn thỏ rừng họp bạn vui chơi
Vang vang giọng hát tiếng cười
Cỏ non mơn mởn, rau tươi thơm lừng
Cáo thấy cảnh tưng bừng vui nhộn
Bén ngụy trang trà trộn vào chơi
Tưởng đâu qua mắt được người
Nào hay đã để "Cái Đuôi Ló Ngoài"
Đuôi đã ló, ai ai cũng biết
Bèn cúm vào mắng nhiếc một hồi
"-Thằng này quả láo thì thôi
Gian manh quỷ quyệt , ai chơi với mày?
Nếu biết phận cút ngay kẻo chết
Còn chần chờ sẽ biết tay ngay".
Cáo bèn xa chạy cao bay
Lập lờ đánh lận: "từ nay xin chừa"!
Xin chừa, mà đã chừa chưa?
Mừng Thượng Thọ
Thất Tuần
VŨ LANG
Sinh nhật nàng, nàng chúc "THỌ" ta
Bẩy mươi khao lão vẫn chưa già
Nhân sinh thất thập xưa nay hiếm
Duy ngã bách niên mới hóa ma!
Tiền kiếp luân hồi hồn trở lại
Ngàn năm hậu kiếp vẫn còn xa
Hôm nay đông đủ người muôn kiếp
Họp mặt chung vui một mái nhà
Mừng Thượng Thọ Bát Tuần
VŨ LANG
Tam mươi* thượng thọ tuổi trời ban,
Hạnh phúc cùng con cháu một đàn,
Phụng dưỡng cha già, con hiếu thảo,
Kính mừng nội ngoại, cháu hiền ngoan,
Thi văn bình giảng còn vui thú,
Kịch, nhạc, ca, ngâm vẫn thấy ham,
An hưởng tuổi vàng cùng cháu chắt,
Đợi ngày chúa rước về Thiên Đàng.
(Đợi ngày theo phật về Niết Bàn.)
*Ghi chú: Cho các tuổi : bảy mươi (thất tuần), bảy hai,
bảy ba, bảy tư, bảy lăm tám mươi, tám hai, tám ba,
tám tư, tám lăm, chín mươi (cửu tuần)
Mười Vẻ Đẹp
Của Giai Nhân I
VŨ LANG
Đẹp người, Đẹp nết, Đẹp duyên,
Đẹp lời, Đẹp ý, Đẹp hiền, Đẹp ngoan,
Đẹp quý phái, Đẹp đoan trang,
Sắc Đẹp lộng lẫy như nàng tiên nga.
Mười Vẻ Đẹp
Của Giai Nhân II
VŨ LANG
Đẹp ơi là Đẹp, Đẹp như tiên,
Đẹp nết, Đẹp người, Đẹp dáng duyên,
Đẹp ý, Đẹp lời, nhân cách Đẹp,
Đoan trang, đài các Đẹp ngoan hiền.
Mười Vẻ Đẹp
Của Giai Nhân III
VŨ LANG
Đẹp người, Đẹp nết, Đẹp kỳ duyên,
Nét Đẹp đoan trang, Đẹp dịu hiền,
Đẹp ý, đẹp lời, thơ quá Đẹp,
Trời cho em Đẹp, Đẹp như tiên.
Nghĩa Trang
Quân Đội VNCH
NGUYỄN DUY AN
Mả mồ chiến sĩ khắp thôn trang
Vắng vẻ người thăm, hương khói tàn
Vị quốc cảnh đồng, thương nội cuộc
Vì thù tâm dị, hận bàng quan
Đừng mong phá tượng mờ chân sử
Chớ tưởng đào mồ phá nghiệp oan
Mặt nạ càng tô càng nhạt nhẽo
Thế gian sáng suốt xét thau, vàng
Những Con Sâu Người
NGỨA NHĨ
Có những thằng hèn sống thật lâu
Bởi lưng cổ chúng giống con sâu
Cong lên, búng tới luồn qua háng
Co lại lùi về quặp rúm râu
Ăn nói lọc lừa quay quắt giỏi
Đứng đi luồn lách xỏ xiên tâu
Xưa nay quan nịnh thường khôn vặt
Lẻo mép, mềm môi cúi gục đầu
Nuôi dân thì
không có tiền chế súng!
ĐẢ CẨU BỔNG
"Cộng Sản Bắc Triều Tiên bắn thử ten lửa
về hướng vùng Vịnh Nhật Bản"
Bắc hàn dân đói quanh năm
Dành tiền chế súng, bom, tăng dọa người
Chế bom nguyên tử và rồi
Chế cả hỏa tiễn, ông tôi làm tàng
Bắn sang dọa Nhật, Nam Hàn
Bắn sang để tỏ mình càng mạnh thêm
Làm chi vậy hở Jong Il?
Tính làm cường quốc ông nên nhớ rằng
Nước ông nghèo chẩy khó khăn
Ngửa bàn tay mãi làm thằng ăn xin!
Thế mà lại cứ vững tin
Xây dựng "xã nghĩa" là tiên trên đời
Ngu chi ngu thế ông ơi
Liên Xô đã chết ngỏm rồi từ lâu
Kéo theo cả khối Đông Âu
Bắc Hàn rồi cũng chìm tàu mà thôi
Mắt mù, tai điếc ông ơi
Ông ôm chủ nghĩa lỗi thời mãi ư?
Tôi ngồi chửi "Mẹ tiên sư"
Ngu "kinh niên" thế, ngu từ thuở nao?
Phụ Nữ Việt Nam
NGỨA NHĨ
Thăm thẳm ngày đêm một khối sầu
Việt Nam phụ nữ quá thương đau
Lấy chồng phục vụ hơn con ở
Làm mẹ lo toan tợ vú hầu
Mắng mỏ khinh khi đồ báo hại!
Vô ra mai mỉa thứ tham giàu!
Dày vò cho đến thân tàn tạ
Bỏ phế không bằng cái dẻ lau!
Pu-chia, Việt Cộng, Một Lò
BÀ HAI XÓM CỦI
"Căm-bu..." Việt Cộng như ruồi
Nước này như chỗ không người "Căm-bu"
Cộng Hồ khắp chốn kể như
Mắt, tai khắp chốn, ứ ư vậy rồi
Tội cho Trí Tuệ nước tôi
Bây giờ chắc đã nằm ngồi nhà lao
Không thì Hồ Cộng quăng vào
Âm Ty, còn biết chỗ nào tìm đây
Biết đâu rồi sẽ thấy thây
Của Lê Trí Tuệ bầy nhầy somewhere
Giặc Hồ tàn ác không "care"
Ngược đường lối chúng, chúng đè chúng "xơi
Tái" rồi lại tiếp tục chơi
Bao năm dân Việt Nam tôi bị lừa.
Qua Đèo Ngang
BÀ HUYỆN THANH QUAN
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Đèo Ngang (họa)
Họa Thơ: VŨ LANG
Qua đèo, đứng ngắm cảnh chiều tà
Thu đạm, rừng phong rụng lá hoa
Thấp thoáng bên đồi dăm thiếu nữ
Mù mờ khói tỏa nóc đôi nhà.
Bôn ba tứ xứ, buồn cho nước!
Lo lắng quê nhà, khổ lão gia!!
Nhớ mảnh trời xanh nơi cố quốc
Tình riêng ai biết? Có mình ta!!!
Quan trí ngu hơn dân
VŨ LANG
Đỉnh cao trí tuệ ngu hơn dân
Đất nước Tổ Tiên cắt bán dần
Lăng, miếu, đình, chùa cho phá nát
Giáo đường, thánh thất cũng chung phần
Tự do, tôn giáo: còng tay lại
Dân chủ, nhân quyền: bịt miệng dân
Lại nhận MÁC-LÊ làm cụ Tổ
Nhục thay cho bè lũ vô luân!!!
Qua Hải Vân
Nhớ Huyền Trân
LÊ DUY NGHĨA
Bánh xe nghiến nhựa vượt đèo Vân
Hiểm trở đâu riêng một ải Tần
Đường gởi sườn non mây bít lối
Núi chồm mặt biển sóng ngăn chân
Điệp trùng trời nước muôn kỳ sắc
Hùng vĩ càn khôn một cự quan
Thương bấy Huyền Trân thân gái Việt
Vu quy Nam tiến mở giang san
Gót sen Nam tiến mở giang san
Phương sử Huyền Trân nạm chữ vàng
Ô Lý tân cương dài quốc thổ
Đồ Bàn Cổ tháp nhốt thanh xuân
Nhớ thương trĩu bước đường muôn dặm
Trung hiếu oằn vai gái một thân
Núi khuất, mây phong hình bóng cũ
Hoa rừng rải nhớ bước giai nhân
Quốc Tổ Hùng Vương
VŨ LANG
Mười tám đời vua dựng nước nhà
HÙNG-VƯƠNG là Tổ nước Nam ta
Tiên-Long phối ngẫu sinh trăm trứng
Lạc-Việt hình thành một quốc gia
Phương bắc đánh tan quân cướp nước
Phương nam nguy biến dẹp can qua
Tổ Tiên dựng nước ngời trang sử
Con cháu đồng tâm giữ nước nhà.
Sợ (1)
VŨ LANG
SỢ sai, SỢ hỏng, SỢ lầm
SỢ run, SỢ hãi, SỢ nhầm kẻ gian
SỢ khủng bố, SỢ lưu manh
Lại còn SỢ vợ, SỢ xanh mặt mày!
Sợ (2)
VŨ LANG
SỢ nguy, SỢ hại, SỢ rằng
SỢ ai chẳng SỢ, SỢ nàng đấy thôi
SỢ oán trách, SỢ chê cười
SỢ mang tiếng xấu, SỢ đời mỉa mai!
Tân Trang
TÚ LẮC
Bà ấy tân trang lắm kẻ lầm
Mũi vừa mới sửa mắt vừa xăm
Lêu nghêu nhún nhẩy đôi giày Mỹ
Cũn cỡn đông đưa chiếc váy đầm
Đuổi cái Thu tàn non sáu chục
Níu mùa Xuân muộn cỡ ba lăm
Hỏi thăm mỹ viện câu này nhé
Có sửa cho bà được cái Tâm?
Thần Thánh Hay Ma Quỷ *
VŨ LANG
THẦN thánh gì đâu, nói thánh THẦN
DÂN nghèo đói rách, chẳng thương DÂN
GIÁO điều MÁC-XÍT, nòi ma GIÁO
THÂN phận CÔNG-NÔNG, kiếp khổ THÂN
CHỦ tớ đảo điên, thành tớ CHỦ
ANH em tráo trở, phản em ANH
ĐỘC tài, độc đảng, mưu thâm ĐỘC
DÂN chủ, dân quyền, hiếp đáp DÂN.
* Chữ đầu câu, cuối câu giống nhau
gọi là thể “Thủ Vĩ Đồng Từ”
Thời Thế
(Thơ Đường Luật toàn vần T)
VŨ LANG
Tính Tình Thẳng Thắn Thế Thì Thôi
Tư Tưởng Tâm Tư Tính Tự Trời
Thất Thế Thẹn Thùng Thêm Tức Tưởi
Tổn Thương Tai Tiếng Thiếu Tìm Tòi
Thật Thà Thô Thiển Thua Thê Thảm
Tráo Trở Tham Tàn Thắng Thế Thôi
Thủ Thế Tung Tin Thề Tiến Tới
Tinh Thần Thể Thức Thật Tân Thời
Tiên và Tiền
TÚ LẮC
Chữ Tiên cùng với chữ Tiền
Khác nhau chỉ một dấu huyền mà thôi
Nhưng Tiên thì ở trên trời
Còn Tiền lại ngự dưới đời trần gian
Kè kè bị bạc vai mang
Tha hồ ăn ngược nói ngang mặc tình
Thơm lừng những tấm "đô" xanh
Đồng tiền ai bảo hôi tanh là lầm
Chữ Tiền thắng cả chữ Tâm
Đem tiền đấm mõm làm câm tịt mồm
Tiền mua được cả linh hồn
Đồng tiền biến dại thành khôn mấy hồi
Tiền gây máu đổ xương rơi
Mua sông bán núi tiền ơi là tiền
Tiền gây thất đảo bán điên
Ba chân dẫu vững như kiềng cũng xiêu!
Không tiền thì lại... túng tiêu
Lắm tiền thì lại lắm điều lăng nhăng
Nhắn cho tiên giới biết rằng
Dưới nhân gian có khối thằng mua Tiên
Bởi vì chúng nó thừa tiền
Việt Nam Khắp Cả
TÂM HUYỀN
Vận nước điêu linh gặp phải thời…
Công lao xương máu đổ đi rồi
Việt Nam khắp cả, tan hoang thế
Hành Thiện riêng gì, rách nát thôi
Vượt biển bao người về cát bụi
Ngồi tù lắm kẻ biệt tăm hơi
Thoát thân càng xót về quê cũ
Vận nước điêu linh gặp phải thời…
Vịnh Tan Buổi Chợ
PHAN LONG YÊN
Tan chợ còn lưu có mấy người
Ngồi lì mua bán tựa đười ươi
Cười cười nói nói làm ra vẻ
Đứng đứng ngồi ngồi chẳng hổ ngươi
Xương cá đầu tôm ruồi nhặng bám
Vật thừa rác rến chó mèo bươi
Càng trưa càng gắt mùi hôi thối
Bán chẳng ai mua vẫn cố ngồi
Xã Hội Suy Tàn
VŨ LANG
Chủ thuyết MÁC-LÊ đã hết thời
Sao ông còn “cố đấm ăn xôi”?
Mồm hô dân chủ, tay đàn áp
Miệng nói tự do lệnh bắt người
Lãnh đạo đảng ông dân quá sợ
Đóng thuyền vượt biển trốn ra khơi
Nhân dân trong nước ông đày đọa
Bóc lột dân nghèo, đói, tả tơi!
Xuống lên
BÌNH NGUYÊN
Xuống lên cũng lũ tụi mày,
Bầu đi bán lại cũng bầy chó săn.
Đảng quyền, Đảng trị, Đảng ăn...
Dân còn xà lỏn (1) nằm giăng giữa trời.
Mặc ai than khóc hết lời,
Cửa trước đóng lại mi dời cửa sau.
Nằm vùng láo nháo rủ nhau,
Cúi đầu phục chỉ cửa sau bà ngồi.
Buồn cho cái lũ chim mồi,
Thay cu (2) gáy tiếng Đảng ngồi giật dây.
Mượn đường trốn giặc qua đây,
Bây giờ áo gấm mập thây trở về.
Xuống lên cũng mấy thằng hề,
Võ tay, vỗ vế trọn bề nô gia.
Bàn thờ thế Bác, thay cha,
Chùa thay đổi chủ thằng ma nó vào.
Cha theo Đảng cứ đón chào,
Cha nào ngoài Đảng thì vào tù ngay.
Ban ngày trưng đủ đồ chay,
Ban đêm ăn mặn ai hay biết mình.
Công an thay chó nó rình
Ai khua dao thớt nó trình lập công.
Đấu tranh giai cấp công nông,
Bây giờ sáng mắt nuôi ông béo cò.
Bác ơi! Bác lắm họa trò,
Điêu ngoa, gian lận học mò bằng cao.
Chết rồi bác tính làm sao,
Phần đông ngu dốt bằng cao biết gì.
Bác ơi! Tại nó ngồi lì,
Xuống lên tụi nó mặt chì ve chai.
Lời này đố bác tại ai?
Tại quân bán nước tay sai Nga, Tàu.
Chú thích:
(1) Xà lỏn: Cái quần sát háng.
(2) Cu: Là loài chim dùng rập bẫy
Thơ Tù
THÍCH QUẢNG ĐỘ
Hòa Thượng Thích Quảng Độ,
hình chụp tại nơi quản thúc, xã Vũ Đoài,
tỉnh Thái Bình, năm 1991
Kiện tướng làm phân
Đêm khuya thao thức nghĩ phân vân
Hai nghìn lịch sử cuộc xoay vần
Phật pháp thịnh suy đà mấy độ
Tăng đoàn vinh nhục trải bao lần
Hòa Thượng thầy vua trong đời Lý (1)
Thiền sư trị nước thuở triều Trần (2)
Ngày nay sự nghiệp phò "Cách Mạng"
Nhà sư "kiện tướng đội làm phân"! (3)
(1) Các vị Hòa Thượng ở đời Lý phần nhiều là Quốc Sư,
như Quốc Sư Vạn Hạnh, Quốc Sư Không Lộ v.v...
(2) Đời Trần, các Thiền Sư làm vua trị nước,
như Thiền Sư Trần Thái Tôn.
(3) Ở thời Cách Mạng, trong phong trào thi đua làm phân
đầu thập niên 60, một nhà sư ở tỉnh Hải Hưng thi đua
đứng hạng nhất, được Hồ Chủ Tịch đích thân
về ban khen và tặng danh hiệu "Kiện tướng làm phân"!
Chùa hoang
Đạo pháp ngày nay đổ quá rồi
Mười người tu học chục người thôi
Chùa hoang cảnh vắng sư về tục
Khói lạnh hương tàn Phật bỏ rơi
Gọi tiểu, tiểu đâu còn mà gọi
Kêu di (1), di cũng tếch đi rồi
Lịch sử hai nghìn hồn phảng phất
Trên tường tôi thấy chữ "than ôi".
(1) Di: tức bà già công quả ở chùa
Tự trào
Quảng Độ diêm công (1) ông hỡi ông
Luận kinh chẳng tỏ luật không thông
Dài lưng tốn vải mà ra dáng
Cầm đũa tay chiêu dám học ngông
Qua bao chế độ lưng vươn thẳng
Trải mấy phen tù lưỡi chẳng cong
Năm mươi lăm tuổi đầu râu bạc
Sống kiếp lưu đày có sướng không? (2)
Thu Nhâm Tuất (1982)
(1) Diêm công: ông nhiều râu
(2) Bị đi đày vào năm 55 tuổi (1982)
Thi đua tu
Tiến bộ tu hành cũng tiến thay
Thi đua giữ giới với tu trai
Dưới bếp vãi bà tu hai nậm
Trên liêu sư cụ giữ ba chai
Gật gù sư nói: "Ồ, thầy khướt"
Ngất ngưởng vãi cười: "Dạ, con say"!
Thôi thôi bái biệt Tây Phương Phật
Cực Lạc nào hơn cái "nước" này!
Gửi sư bà nghiện rượu
Bà là Ni mà tu đạo "Vô"
Đôi khi cũng niệm tiếng Na Mô?
Tôm bay (1) rán mỡ "xơi" lưng chảo
Rượu đế ngâm trăn nín cả vò
Gà thiến cân năm (2) kêu còn nhỏ
Cá mè cắt bốn (3) bảo chưa to
Tám mươi bảy tuổi "tu" còn mạnh
"Tổ quốc ghi công" sướng thấy mồ!
(1) Tôm bay: là con cào cào, cấu cổ, vặt cánh,
vặt chân rồi rán với mỡ.
(2) Gà thiến phải nặng hai cân "sư bà" mới ăn,
chứ cân rưỡi chưa đủ to!
(3) Cá mè mỗi con phải to đủ cắt làm bốn khúc
sư bà mới ăn cho!
Gửi sư cụ Đảng viên
Sư cụ mà sao lại "Đảng ta"?
Hỏi ông ông chính hay ông tà?
Ăn cơm của Phật ông phản Phật
Làm việc nhà ma ông theo ma
Chó gà cá lợn mê bỏ mẹ
Hành hẹ tỏi riềng khoái thấy cha
Sao không mặc quách manh áo giấy
Khoác làm chi nữa tấm "ca-sa"?!