TƯỞNG NIỆM GIÁO SƯ
NGUYỄN NGỌC HUY
NGUYỄN MẠNH TRINH.
Ngày 28 tháng 7 năm 1990 là ngày từ trần của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Ông mất khi đang ngược xuôi tất tả đi vận động để vận động phong trào thế giới yểm trợ cho những người yêu tự do dân chủ của Việt Nam. Suốt đời , sống đạm bạc , hầu như tất cả những tâm lực đều dồn vào việc thực hiện lý tưởng . Cái chết của ông là một mất mát lớn cho đất nước.
Có một con người chiến sĩ trong con người thi sĩ, tôi đã nghĩ như thế khi đọc những bài thơ trong tập “ Hồn Việt “ của Đằng Phương. Tôi không ngờ đó là bút hiệu của giáo sư Nguyễn ngọc Huy. Những bài thơ đã mang cái tâm rộng lớn phổ vào ngôn ngữ để thành những câu thơ đầy tâm huyết nhưng lại truyền cảm .
Mỗi năm , cứ đến ngày giỗ của ông , có nhiều nơi làm lễ tưởng niệm . Những người đồng chí , những học trò cũ, những người yêu mến ông , tụ họp lại và nhớ về một người tuy đã khuất nhưng cái sống vẫn còn, bởi ngọn đuốc thắp lên từ cuộc đời và hành động của ông.
Còn riêng tôi, đó cũng là dịp để đọc lạo những bài thơ , của một thi sĩ không muốn làm thi sĩ mà muốn dùng thi ca để bày tỏ lòng yêu nước và khích động những lớp trẻ hơn đi vào con đường tranh đấu.Hình như , những bài thơ ấy đã ảnh hưởng đến cả một thế hệ của chúng tôi. Chúng tôi, khi còn nhỏ , đã nghẹn ngào với nhục mất nước . Chúng tôi đã hãnh diện khi dân tộc mình có những anh hùng liều mình cho núi sông. Chúng tôi hãnh diện là người con dân đất Việt ..
Nếu ai hỏi tôi . Có một quyển sách nào tạo được ảnh hưởng sâu sắc kéo dài suốt cả cuộc đời không? Thì tôi sẽ trả lời rằng. Có . Đó là quyển sách “ Tân Quốc Văn” lớp nhất của ba tác giả Trần Mộng Chu, Nguyễn Quý Bính ,và Hoàng Đình Tuất. Quyển sách giáo khoa bậc tiểu học ấy, theo ý nghĩ của tôi, đã ảnh hưởng đến cả một thế hệ học sinh chúng tôi. Những bài học thuộc lòng và những bài tập đọc thời thơ ấu ấy đã tạo cho chúng tôi những ấn tượng sâu sắc về con người Việt , dân tộc Việt, đất nước Việt. Tự nhiên, gây ra cho chúng tôi những tình cảm gắn bó với quê cha , đất tổ và thành một nỗi niềm thiêng liêng không thay đổi…. Lớn lên, trong tình trạng của một đất nước chiến tranh , nhưng nề nếp xưa kia vẫn nguyên mực thước. Cái khuôn mẫu đức dục , trí dục ấy vẫn hướng dẫn chúng tôi theo những bài công dân giáo dục đã được ươm mầm lúc còn trong trắng học trò
Tôi nhớ những câu thơ Lưu Trọng Lư về mẹ mà mỗi lần nhớ đến lại nao nao trong dạ về tuổi ấu thơ trôi qua :”Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời .Lúc người còn sống tôi lên mười. Mỗi lần nắng mới len ngoài dậu. Ao đỏ người phơi trước dậu thưa…”. Tôi nhớ những câu thơ Đoàn Văn Cừ và , “ Chợ Tết “, Tế Hanh và , “Lời Con Đường Quê”, Xuân Tâm và , “ Nghỉ hè”, … những bài thơ làm cho tôi yêu mẹ cha, yêu thầy , yêu bạn, yêu quê hương , đất nước…
Tôi nhớ vào một buổi trưa nóng nực của Saigòn, tôi nằm trên phản đọc và học thuộc những câu văn phẫn hận trong bài “ Ngục Trung Thư “ của nhà cách mạng Phan Bội Châu mà ròng ròng nước mắt. Dù trẻ thơ , nhưng tôi cũng nghe thắt trong ngực, buốt trong tim vì những lời thống thiết của một sĩ phu trước cảnh nhà tan , nước mất. Không hiểu tôi có quá chủ quan không , khi nghĩ rằng ngày hôm nay tôi viết văn được là nhờ những bài tập đọc , những bài học thuộc lòng thời thơ ấu ấy.
Nhưng có một người làm thơ, tuy khẳng định mình không phải là thi sĩ nhưng lại gây cho tôi thật nhiều cảm xúc từ thi ngữ và thi ảnh. Đó là nhà thơ Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy,mà các bài thơ của ông như “Anh Hùng Vô Danh”, hay “ Ngày Tang Yên Báy” tôi đã thuộc lòng không sót một chữ thời học tiểu học. Tôi nhớ những lời bình giải của thầy cô dạy chúng tôi lúc đó về cái tâm yêu nước vằng vặc của những bài thơ này. Tôi nhớ cô Khang , cô giáo lớp nhì của tôi vừa giảng về cái chết anh hùng của những chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng trên đoạn đầu đài vừa rưng rưng nước mắt. Tôi nhớ thầy Thuật, thầy giáo lớp nhất của tôi đọc những câu thơ tả cảnh chia ly giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi với giọng thật nhiều cảm khái làm chúng tôi say mê như trong một vở kịch thơ hùng tráng mà bi thiết.. …
Tôi nhớ, khi bắt đầu đọc lại những trang thơ của “Hồn Việt”, để thấy rõ tâm tư của thi sĩ Đằng Phương. Tôi nhớ, rất nhiều , từ những bài học thuộc lòng thuở nhỏ để liên tưởng thành cảm giác bây giờ. Vâng, tôi làm sao quên được ….
Nguyễn Ngọc Huy, là một khuôn mẫu của con người tranh đấu. Đời sống của ông là một chuỗi dài hoạt động cho một mục đích mà ông có từ lúc thiếu thời . Với lý tưởng noi theo, Đằng Phương cũng là một khuôn mẫu khác để dùng văn chương bầy tỏ chính kiến mình. Một mà hai , hai mà một, hai vóc dáng ấy hòa hợp thành một khuôn dáng người Việt yêu nước .Trong bài thơ đầu tiên của “ Hồn Việt “,” Thay lời tựa “, ông khẳng định:
“ Hỡi người bạn giở tập thơ Hồn Việt
Đọc giải buồn hay để biết Đằng Phương
Đây những lời giới thiệu kém văn chương
Chỉ lấy sự chân thành làm giá trị.
Tôi chẳng phải là một nhà thi sĩ
Lấy văn thơ làm Lẽ Sống trên đời
Đem ngọc châu trau chuốt mãi nên lời
Để trang điểm nàng Ly Tao diễm lệ
Tôi chẳng phải là một nhà thi sĩ
Thả linh hồn hòa nhịp với thiên nhiên
Dùng lời thơ ghi vẻ đẹp u huyền
Luôn biến chuyển của núi sông hùng vĩ…”
Ngôn từ bình dị, nhà thơ mang sự chân thành làm căn bản cho thi ca mình.Không viển vông lãng mạn, không mơ màng ảo giác , tất cả chỉ là lời tâm sự của một người chiến sĩ tuy thất bại trong thời thế ngửa nghiêng của đất nước nhưng vẫn nuôi một niềm lạc quan cho tương lai của đất nước của dân tộc. Đích thực không phải, mẫu người của “ là thi sĩ nghĩa là ru với gió. Mơ với trăng và vơ vẩn cùng mây..”. Mà, chỉ là :
“.. Tôi chỉ là một người dân nước Việt
Cảm nỗi lòng của kẻ mất quê hương
Nỗi nhục nhằn , nỗi khổ cực đau thương
Của nòi giống nghẹt trong cùm lệ thuộc
Lúc đường sống mịt mù chưa thấy được
Tôi mượn thơ để tỏ nỗi căm hờn
Nỗi u buồn chán nản kẻ cô đơn
Không phụng sự giang san như ý nguyện
Nhớ người bạn lạc loài nơi chiến tuyến
Và nhìn gương tranh đấu của tiền nhân
Tôi thấy mình vô dụng lấy thơ văn
Ghi nỗi tủi một cuộc đời trống rỗng…”
Tôi đã tưởng tượng. Một chính khách sống đạm bạc, quần áo trang phục giầy vớ cũ sờn, nhưng vẫn đi hết mọi nơi trên thế giới để mong vận động liên kết thành một lực lượng tranh đấu cho tự do dân chủ. Tôi đã tưởng tượng. Một người khoa bảng những đêm não lòng thức trắng, vừa chăm chú nhiên cứu theo những trang chuyên khảo Bộ luật Hồng Đức vừa nghe đau xót thế thời. Nhưng , với đời sống của Nguyễn Ngọc Huy và thi ca của Đằng Phương, thì không còn là tưởng tượng mà là sự thực. Vận số đất nước phải chịu nhiều điêu linh, bao nhiêu năm chiến tranh với những bàn tay ngoại bang chỉ đạo, khiến sinh lực dân tộc hao mòn, quốc gia bị tụt hậu so với những quốc gia lân cận. Tình cảnh ấy, không phải là nỗi niềm riêng của nhà thơ Đằng Phương , mà còn là chung của nhiều thế hệ Việt Nam.Thơ và người, là một , phản ánh của một thời đại đầy biến động.
Tôi đọc bài thơ “ Ngày Tang Yên Báy “ trong một chia sẻ tột cùng. Thơ không phải để kể lại một câu chuyện , mà , thơ là dòng điện truyền nhũng cảm xúc mãnh liệt lan vào trong tâm tưởng :
“… nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến
sau cái nhìn chào non nước bi ai
Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng
“Việt Nam muôn năm!” Một đầu rơi rụng
“Việt nam muôn năm !” Người kế tiến lên
và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên
những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc…”
Làm sao chúng tôi không yêu núi sông đất nước cho được khi dân tộc tôi có những anh hùng như vậy. Việt Nam muôn năm! Một đầu rơi rụng. Việt nam muôn năm! Người kế tiến lên… ôi ! câu thơ sao mà hùng tráng sao mà tuyệt vời hy sinh như vậy. Trung Hoa có mẫu người Kinh Kha sang Tần như là một trang tráng sĩ hào hùng đởm lược. Nhưng so sánh với mười ba liệt sĩ Yên Báy khi tử biệt có khi còn không bằng. Những chiến sĩ coi cái chết tựa lông hồng, đem hình hài trả nợ núi sông, dù con người đâu phải cỏ cây cũng có gia đình thê nhi gánh nặng :
“ … Vài cụ già đầu bạc lệ ràn rơi
Ngất người sau tiếng rú : ‘ Ối ! con ơi!
Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn
Trên khóe mắt đã từng khinh đau đớn
Của những trang anh kiệt sắp lìa đời
Nhưng chỉ trong giây phút vẻ tươi cười
Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước
Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước
Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường
Eo le thay ! muốn phụng sự quê hương
Phải dẵm nát bao lòng mình quý mến…”
Nguyễn Thái Học, người đứng đầu Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Báy đã từ chối chạy qua Trung Hoa theo lời khuyên của những người đồng chí. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại, những nhà cách mạng lão thành Việt Nam đang lưu lạc ở Trung Hoa đã đề cử đồng chí Đoàn Kiểm Điểm trốn về nước mời Nguyễn Thái Học tạm lánh mặt qua bên ấy để dưỡng uy sức nhuệ và chờ một thời cơ mới sẽ ra mặt hoạt động thuận tiện hơn. Mặc dầu đang bị thực dân Pháp lùng bắt ráo riết, nhưng ông vẫn nhất quyết ở lại trong nước để tiếp tục cuộc chiến đấu. Đoàn Kiểm Điểm đã ba lần vượt biên giới Trung Việt về tìm ông để mời và thuyết phục nhưng ba lần ông từ chối. Đằng Phương đã dùng thơ thác lời của đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nói với Đoàn Kiểm Điểm :
“… Tôi đã từng cạn xét lẽ gần xa
Tôi không thể cam tâm rời đất Việt
Khi muôn dân quằn quại giữa đau thương
Tôi không thể đành lòng đi trốn chết
Lúc anh em xông xáo chốn sa trường
Tôi không thể bỏ những người tuấn kiệt
Trong ngục tù đã nát thịt tan xương
Thà ở lại xông pha trong khói đạn
cho kiếm hờn uống máu kẻ thù ta
Và tranh đấu đến khi trong xán lạn
Giống Lạc Hồng vui hát khải hoàn ca
Hoặc lấy chết để tạ lòng những bạn
Đã vì tôi lăn lóc giữa phong ba
Thôi Kiểm Điểm! Anh hãy về thưa lại
Cùng những người đã chẳng ngại xa xôi
Đã ba lượt sai anh qua biên ải
Vượt muôn trùng sông núi đến tìm tôi :
Nguuyễn Thái Học khó vâng lời chỉ dạy
Xin cảm ơn những bạn cố khuyên mời!”
Thời đại chiến tranh vừa qua cả hai miền Nam Bắc có cả hàng triệu chiến sĩ hy sinh. Đi qua nghĩa trang quân đội Biên Hòa, thấy hoang vắng tiêu sơ, lại ngậm ngùi cho những người nằm xuống. Phía người chiến thắng, dường như ở bất cứ tỉnh huyện nào cũng có đài tử sĩ hay nghĩa trang liệt sĩ . Ở cả hai bên , những chiến sĩ ấy đều xứng đáng được tưởng nhớ” thắng quang vinh mà bại cũng anh hùng” như câu thơ Cao Tần. Chẳng qua vì vận nước, và ngoại bang chi phối mà anh em tàn sát lẫn nhau. Ba mươi năm qua, vết thương dân tộc vẫn chưa lành miệng. Những anh hùng vô danh, sống đời hào hùng không tên tuổi. Những hy sinh lặng lẽ, những chàng trai xuôi tay khi thân thể và trí tuệ còn tươi xanh sức sống. Những cái chết riêng mình để đất nước hồi sinh.Một bài thơ tôi đọc đã có cảm giác xúc động mãnh liệt . Bài “ Anh Hùng Vô Danh” mà thời thơ ấu tôi thuộc nằm lòng:
“ Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước
Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những giải cát hoang vu
Biến thành một giải sơn hà gấm vóc
Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc
Không ngại xa hăng hái vượt trùng sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn lớn rộng
Họ là kẻ khi quê hương biến động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào lửa khói quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc…”
Có người bảo, bây giờ mà còn những vần thơ đấu tranh kêu gọi hy sinh xương máu . Bao nhiêu năm chiến tranh chưa đủ hay sao? Thi ca viết về tình yêu lãng mạn, đọc có thú vị hơn những lời kêu gọi khô khan như thơ Đằng Phương? Mỗi người một ý, tôi không dám phê bình cái ưa thích cá nhân. Riêng tôi, dù vẫn yêu những bài thơ ca tụng trái tim luyến ái nhưng cũng có lúc rung động với những vần thơ của lý trí. Có một lúc, phải đọc những câu thơ Đằng Phương để thấy đóng góp của mình cho đất nước , cho quê hương, nếu có, cũng chẵng đáng gì so với những người đã hy sinh. Bao nhiêu người đã làm đẹp quê cha , giữ thơm quê mẹ. Những bài thơ trong tập “ Hồn Việt “ đã làm cho tôi yêu mến đất nước. Trong cuộc đời tôi, đã đi qua nhiều vùng đất nước, hầu như tất cả các tỉnh thành miền Nam tôi đều có ghé qua và thấy được sinh lực và tiềm năng của dân tộc. Nhiều lúc, tôi thấy cái mộc mạc dân dã của ngôn ngữ thật thà lại có sức lôi cuốn hơn những văn hoa hào nhoáng của son phấn tô điểm bên ngoài.
Hơn nữa, thơ Đằng Phương nhắc lại cho tôi những ký ức học trò mà bây giờ, đang bước vào tuổi sáu mươi, tôi vẫn chưa quên. Nó nhắc lại cho tôi những thầy cô tuổi nhỏ, là những người uốn nắn tuổi thơ đem niềm tin tưởng cho thế hệ nối tiếp. Tôi cũng biết ơn nền giáo dục ngày trước dù có sơ xuất nhưng cũng tạo cho thế hệ chúng tôi trí dục , đức dục tốt đẹp. Chùng tôi có những nhà giáo đúng nghĩa nhà gíao , lúc nào cũng mong muốn học trò của mình thành người.Thành người không phải chỉ trong nghĩa của thành công mọi mặt mà còn là thành nhân cả trong những hoàn cảnh thua bại nghặt nghèo. Làm thế nào, để trong mọi tình cảnh, vẫn là con người đúng nghĩa.Trong một liên tưởng nào đó khi nhắc đến giáo sư Nguyễn Ngọc Huy tôi lại nhớ đến ông thầy giáo Đằng Phương , người đã dậy dỗ thế hệ chúng tôi yêu quốc gia dân tộc từ những bài thơ thành những bài học thuộc lòng khai tâm cho trái tim và khối óc tuổi trẻ Việt Nam. Bây giờ , ở trong nước những môn trí dục, đức dục được thay bằng triết học Mác Lênin. Còn ở hải ngoại, có thể nào lớp trẻ ở những trung tâm dạy Việt ngữ sẽ to tiếng học thuộc lòng những bài văn vần như “ Ngày tang Yên Báy” hay “ Anh hùng vô danh” như chúng tôi ngày trước chăng? Cũng có thể, sao không?…