Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

T DẠ CỔ HOÀI LANG

ĐẾN VỌNG CỔ

 

NGUYỄN KIN THIT

 

 

Cổ nhân có câu: "Nhứt ẩm nhứt trác sự do tiền định". Tạm dịch: Một miếng ăn, một hớp uống đều do trời định trước. Ta có thể suy diễn thêm những việc nhỏ như miếng ăn hớp uống còn do bề trên sắp đặt huống hồ những mối duyên khác như duyên về đạo, duyên vợ chồng, duyên bạn bè cũng như cái duyên để viết và xuất bản một quyển sách. Đối với tôi cái duyên để viết và xuất bản một quyển sách cũng như cái duyên gắn bó với bài vọng cổ đã là mối ưu tư hàng đầu mãi đeo đẳng trong tôi từ năm này sang tháng khác.

 

Tâm sự Nguyễn Hiến Lê

Trong cuốn "Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười" khi viết lời tựa xuất bản, Nguyễn Hiến Lê có trích dẫn tư tưởng của người xưa: "Phải có duyên mới viết được một cuốn sách" và kết luận: "Tôi muốn nói thêm: Phải có duyên mới xuất bản được một cuốn sách".

Thật vậy cuốn du ký và biên khảo "Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười" được Nguyễn Hiến Lê viết xong vào năm 1939 mãi đến ngày 15 tháng 3 năm 1954 mới được xuất bản tại Sàigòn. Như vậy chỉ có cái duyên để viết xong một quyển sách chưa đủ, phải đợi đến 25 năm sau Nguyễn Hiến Lê mới có cái duyên để xuất bản cuốn sách của ông. Cách đây 37 năm (1971) tôi đã có cái duyên viết xong quyển: "Tánh Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam". Mãi đến năm 1972 tôi mới có cái duyên để in Ronéo quyển sách ấy và nộp lưu chiếu tại các thư viện của Viện Đại Học Sài Gòn. Rồi những cái duyên khác đưa đẩy. Trong thời gian giảng dạy tại Viện Đại Học Cần Thơ và Đại Học Hòa Hảo, tôi đã có dịp đưa nhiều nhóm sinh viên đi điền dã sưu tầm, bổ sung và hoàn chỉnh quyển sách ấy và sẵn sàng xuất bản. Tánh tôi quá cầu toàn và hơi lề mề nên đợi đến đầu năm 1975 mới đặt vấn đề với các nhà xuất bản. Trong thư gởi giáo sư Nguyễn Thanh Liêm,Trưởng Ban biên tập tập san Đồng Nai Cửu Long ngày 28/06/2004 tôi có viết:

"... Ký hợp đồng với nhà Khai Trí xuất bản quyển "Tánh Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam" vào thời điểm nóng bỏng lịch sử tháng 4 năm 1975. Dĩ nhiên là không thực hiện được.

"Bản thảo duy nhứt còn lại bị thất lạc trong chuyến vượt biên đầu tiên (tháng 4 năm 1987)..."

Thời gian trôi qua thấm thoát mà đã 36 năm. Sau khi tạm ổn định cuộc sống nơi xứ người, tôi đã thu thập thêm tài liệu trong và ngoài nước, trước cũng như sau năm 1975. Nhưng đứa con tinh thần mà tôi hằng ấp ủ vẫn chưa được chánh thức chào đời.

Sở dĩ tôi phải dông dài như vậy vì nhiều lẽ:

- Một là tôi không có đủ duyên lành như Nguyễn Hiến Lê để viết và xuất bản được một quyển sách.

- Hai là trong quyển "Tính Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam" tôi có đề cập đến bài Dạ Cổ Hoài Lang và Vọng Cổ trong đó có một chi tiết ít người đề cập tới.

Thôi thì thay vì ngồi "nguyền rủa bóng tối" trách cứ cái duyên, xin hãy cho tôi thắp ngọn nến nhỏ, đốt ngọn đèn tâm với mục đích duy nhứt là thêm chút ánh sáng về nét đặc thù của cổ nhạc miền Nam.

Tôi muốn nói tới bản Dạ Cổ Hoài Lang và bài Vọng Cổ hầu giải tỏa phần nào cái "tâm sự Nguyễn Hiến Lê" mà tôi hằng ấp ủ từ lâu. Ai là tác giả đích thực của bài Dạ Cổ Hoài Lang?

Từ trước đến nay khi viết về Dạ Cổ Hoài Lang, hầu hết các tác giả đều khẳng định ông Sáu Lầu tức Cao Văn Lầu đã sáng tác cả nhạc lẫn lời bài hát bất hủ này. Theo ông Trần Văn Khải và giáo sư Trần Văn Khê thì ông Sáu Lầu sanh ra lối 1890 tại xã Thuận Lễ tỉnh Tân An, năm lên 6 tuổi ông theo cha về Bạc Liêu (1). Ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang vào năm 1920 tại nhà đèn Bạc Liêu (2).

Giáo sư Nguyễn Thuyết Phong cho rằng ông Sáu Lầu sáng tác Dạ Cổ Hoài Lang vào khoảng 1919-1920 (3).

Soạn giả Nguyễn Phương đã dẫn lời của nghệ sĩ Bảy Cao cho rằng lúc nhỏ ông Sáu Lầu làm sa di ở chùa Vĩnh Phước (Bạc Liêu) cách nhà Bảy Cao ở xóm Hàng Cóc độ 50 thước và là cha đẻ bài Dạ Cổ Hoài Lang. Ông Sáu Lầu là học trò của nhạc sư nổi tiếng Hai Khị ở Bạc Liêu và là thầy dạy cổ nhạc của nghệ sĩ Bảy Cao (4).

Thật ra cho đến nay vẫn còn một số nghi vấn về lời của bài Dạ Cổ Hoài Lang. Có người cho rằng lời bài hát do ông Trần Xuân Thơ đặt ra. Có người cho rằng lời bài hát vốn là một bài từ của nhà sư Nguyệt Chiếu. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin chép bài "Thử tìm hiểu xuất xứ bài Vọng Cổ" của ông Nguyễn Tử Quang đăng trong tạp chí Bách Khoa số 63 ngày 15/8/1969:

"... Vào khoảng năm 1920 tại chùa làng Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu có một nhà sư tên họ thật là gì người làng không biết được mà chỉ biết pháp danh là Nguyệt Chiếu. Vì ở xa lại nên người ta không rõ được tông tích nhà sư. Nhưng thấy nhà sư sự học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh mình vào cửa Phật.

"Tuy đã đi tu nhưng vẫn mang nặng tình non nước, lòng còn hoài bão chí khí lớn lao với một cuộc đổi thay, nên nhà sư mới đem tâm sự mình ký gởi trên bài từ đề là Dạ Cổ Hoài Lang nghĩa là đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng. Đại ý của nó cũng tựa như tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn Thị Điểm.

"Bài thơ này lại được vào tay ông Sáu Lầu, một nhạc sĩ có danh tiếng lúc bấy giờ. Lời thơ tuy tầm thường nhưng có lẽ lúc bấy giờ đôi bên thông cảm được mối tình thương nhà nhớ nươc nên ông Sáu Lầu mới đem bài thơ ấy phổ ra nhạc. "Đó là bài Dạ Cổ Hoài Lang, nhịp đơn, âm điệu mường tượng như hai bài Hành Vân và Xuân Nữ.

Bài ấy lời lẽ như thế này:

Từ phu tướng

Báu kiếm sắc phong lên đàng

Vào ra luống trông tin chàng

Thêm đau gan vàng

Trông tin chàng

Gan vàng thêm đau

Chàng dầu say ong bướm

Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang

Đêm luống trông tin bạn

Ngày mỏi mòn như đá vọng phu

Vọng phu, vọng luống trông tin chàng

Năm canh mơ màng

Chàng hỡi, chàng có hay

Đêm thiếp nằm luống những sầu tây

Biết bao thuở đó đây sum vầy ?

Duyên sắt cầm tình thương

Nguyện cho chàng

Đặng chữ bình an

Trở lại gia đàng

Cho én nhạn hiệp đôi

Trở lại trường hợp sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Ký giả Thanh Cao trong bài phỏng vấn ông Sáu Lầu về ngày chào đời của bài Vọng Cổ đăng trong báo Dân Mới ngày 20/12/1953 có viết câu trả lời của ông Sáu Lầu: "Tôi không nhớ rõ là đã được bao nhiêu lâu, nhưng lại nhớ năm ấy tôi được 29 tuổi và bây giờ tôi đã 63". Dựa vào bài báo, ta có thể đoán biết Ông Sáu Lầu chào đời năm 1890. Và năm ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang là năm 1919 lúc "Khủng hoảng tinh thần" trong "hoàn cảnh đau thương" bị cha mẹ bắt buộc phải bỏ vợ sau 8 năm chung sống vì lý do bà vợ không sanh con nối dòng. Ông buồn nhớ bạn lang nên đặt ra bài ca tên Hoài Lang. Sau đó ông Bảy Kiến đề nghị thêm vô hai chữ Dạ Cổ tức là Dạ Cổ Hoài Lang.

Giáo sư Nguyễn Thuyết Phong thì cho rằng: "Ông Sáu Lầu sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang vào khoảng năm 1919-1920, không phải vì thương nhớ bạn lang, nhớ vợ bị bắt buộc phải ly dị, mà nhân dịp có một nhóm nghệ sĩ từ Huế vào trình diễn trong Nam, ông Sáu Lầu sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang để đáp lễ nhóm nghệ sĩ Huế" (5).

Theo soạn giả Nguyễn Phương và nghệ sĩ Bảy Cao thì sau ba năm chung sống mà không có con nên ông Sáu Lầu bị cha mẹ buộc phải ly dị vợ. Nhưng hai người "Cái căn không bỏ, cái nợ không rời" nên thường lén lút gặp nhau. Và cái chái nhà của ông Lê Văn Đại thân phụ nghệ sĩ Bảy Cao chính là điểm hẹn hò cũng như tiếng đàn kìm điêu luyện của ông Sáu Lầu đã kết nối mối tình dang dở của vợ chồng ông (6).

Về hoàn cảnh sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang, chúng tôi đồng ý với ông Vương Thư Sinh khi cho rằng Ông Sáu Lầu chỉ đặt ra bài nhạc còn lời ca là của một nguồn gốc khác (7).

Thật vậy đọc toàn lời ca của bài Dạ Cổ Hoài Lang, ta thấy toát lên lời thở than thương nhớ của một người vợ có chồng đi chinh chiến phương xa. Nàng ở nhà mòn mỏi trông tin, luôn mong mỏi giây phút trùng phùng. Đây cũng là tâm trạng chung của nhiều thiếu phụ Việt Nam thời bấy giờ, khi người chồng vì bổn phận, vì nhiệm vụ phải "chấp kiếm lên đường" đi ra biên ải... Đây không phải tâm sự ai oán của người chồng vì hoàn cảnh phải sống xa lìa người vợ thủy chung gắn bó. Ông Sáu Lầu không thể đặt ra lời một người đàn bà nhớ chồng để gởi gấm tâm sự nhớ vợ của ông.

Hơn nữa ông còn sáng tác cả nhạc lẫn lời những bài như "Minh Hoàng thưởng nguyệt", "Giọt mưa đêm..." thì hẳn nhiên ông có thừa khả năng để sáng tác một bài "Dạ Cổ Hoài Thê " thay vì "Dạ Cổ Hoài Lang"! Qua những điều vừa dẫn trên, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của ông Nguyễn Tử Quang nên đã viết trong quyển "Tánh Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam" cũng như phát biểu tại trung tâm Văn Hóa Giáo Dục Hồng Đức tại Montréal về Ca dao miền Nam ngày 13 tháng 5 năm 2001 như sau: "Thật ra lúc đầu bản Vọng Cổ nầy chỉ là một bài thơ tựa đề là Dạ Cổ Hoài Lang của nhà sư Nguyệt Chiếu ở chùa làng Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu, sáng tác vào khoảng năm 1920. Bài thơ nầy được ông Sáu Lầu một nhạc sĩ danh tiếng cũng ở Bạc Liêu phổ ra nhạc ..." (8)

Sau năm 1975 có dịp tới Sóc Trăng, tôi lại có cái duyên lành gặp được ông Nguyễn Tử Quang, người cùng thời với ông Sáu Lầu và được ông xác nhận chi tiết về tác giả bài Dạ Cổ Hoài Lang như đã đăng trong báo Bách Khoa năm 1969 là đúng sự thật.

 

Từ Dạ Cổ Hoài Lang đến Vọng Cổ

Miền Nam là miền đất mới màu mỡ, phì nhiêu với những kho tàng vô tận như đồng ruộng bao la, cây hiền trái ngọt và sông nước trong lành đã nổi tiếng là miền trù phú bậc nhứt nước Nam.

Chính vì vậy Nguyễn Văn Xuân có viết trong cuốn "Khi Những Lưu Dân Trở Lại": "Cái lợi lớn của miền Nam là được thu nhập một nền giáo dục Khổng Mạnh song ít khắt khe hơn mà đồng thời nhờ sinh hoạt xa triều đình lại ở vào khu vực cây ngọt trái lành, vườn rộng đồng xanh thênh thang nên tình cảm cũng nẩy nở phong phú hơn nhiều lắm" (9).

Dân tộc miền Nam luôn gặp gỡ nhiều dân tộc khác lại có một tâm hồn cởi mở phóng khoáng, cho nên gặp một dân tộc nào họ cũng muốn tìm cái điệu nhạc của dân tộc đó với mục đích làm sao phối hợp làm giàu cho cái vốn của mình. Do đó chúng ta thấy âm nhạc tài tử từ miền Trung đi vào trong Nam nó biến thành màu sắc đậm đà hơn vì cấu trúc trong Nam là cấu trúc phóng khoáng. Đó là cấu trúc động và mở. Nó khác với cấu trúc tịnh và đóng.

Chẳng hạn như một bài Lưu Thủy ở miền Trung ban đầu chỉ đơn sơ mấy nét:

Hò xự xang xế xang hò xự xang

Xế xang xự xang xáng xự

Hò cống cống xang cống xê xang xê cống líu

Tới chừng sang qua "Lưu Thủy thục giang" lại theo phong cách Huế:

Hò (là) hò xự xang

Xế xang hò (là) hò xự xang

Xê cống xang xê xang xự hò xang.

Từ "Lưu Thủy Thục Giang" vô trong Nam biến thành "Lưu Thủy Đoản" (Lưu Thủy vắn). Từ Lưu Thủy Đoản biến ra thành "Lưu Thủy Trường" dài hơn nhiều. Từ Lưu Thủy Trường nó biến hóa không ngừng từ nhịp 4 rồi nhịp 8 v.v.. Không thích giữ nguyên xi, biến chuyển mà vẫn giữ cái gốc, đó là cái cấu trúc phóng khoáng, động và mở của âm nhạc miền Nam ( theo GS Trần Văn Khê )

Bài Dạ Cổ Hoài Lang cũng không vượt ra ngoài cái quy luật nói trên. Ở đây có vấn đề được đặt ra: Tại sao bài Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu Lầu được nhiều người ưa thích và truyền tụng đến ngày nay trong khi bài "Dạ Bán Chung Thinh" ("Nửa đêm nghe tiếng chuông" của thầy ký Trần Quang Quờn bị mai một không còn ai nhắc tới? Theo GS Trần Văn Khê có ba lý do để giải thích:

- Một là bài Dạ Bán Chung Thinh theo hơi Nam nhưng bí hiểm còn Dạ Cổ Hoài Lang cũng theo hơi Nam nhưng dính liền với tiếng ru của bà mẹ cũng như dính liền với bài Hành Vân lúc đó rất thịnh hành.

- Hai là thế chiến thứ nhứt (1914-1918) bùng nổ, nhiều thanh niên Việt Nam bị bắt đi làm lính đánh thuê cho Pháp. Cảnh biệt ly diễn ra khắp mọi gia đình. Tâm sự ai oán của người chinh phụ diễn tả trong Dạ Cổ Hoài Lang ai nghe cũng xúc động.

- Ba là thời bấy giờ có mấy gánh hát cải lương ra đời như gánh hát của André Thận (1917) và gánh hát của thầy Năm Tú (1918). Đặc biệt thầy Năm Tú có công trong việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt từ Nam chí Bắc qua dĩa hát Pathé Phono 78 vòng. Và không ai ngờ rằng chính thầy Năm Tú đã đi tiên phong trong việc đưa Dạ Cổ Hoài Lang lên sân khấu như nhận định của Toan Ánh trong Cầm Ca Việt Nam:

- "Bài này (tức Dạ Cổ Hoài Lang - NKT) được đưa lên sân khấu bởi gánh hát thầy Năm Tú ở Mỹ Tho lần đầu tiên rồi lần lượt các gánh hát khác cũng sử dụng nhất là trong các tuồng cải lương" (10).

Bài Dạ Cổ Hoài Lang lúc đầu chỉ có nhịp đôi được phổ biến rộng rãi trong giới cải lương khoảng năm 1925-1927, dần dần thay thế bản Tứ Đại Oán. Về sau nó biến chuyển không ngừng từ nhịp 2 được tăng lên nhịp 4 với bài "Tiếng Nhạn Kêu Sương" của soạn giả Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung). Từ nhịp 4 lên nhịp 8 do thầy Giác khởi xướng khoảng năm 1929-1930 và phát triển khoảng 1935 -1937 với bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa" do nghệ sĩ Năm Nghĩa phổ biến. Từ năm 1938 nghệ sĩ Bảy Hàm tăng lên thành "Vọng Cổ nhịp 16" với tiếng hát cô Tư Sạng trong bài "Tình mẫu tử". Sau thế chiến thứ hai (1939-1945), Vọng cổ nhịp 16 càng được phổ biến rộng rãi hơn với tiếng hát điêu luyện của nghệ sĩ Út Trà Ôn với các bài "Tôn Tẫn giả điên", "Thái sư Văn Trọng" do hãng dĩa Asia phát hành. Theo soạn giả Viễn Châu từ năm 1947 dĩa "Tôn Tẫn giả điên" bán chạy như tôm tươi còn dĩa "Thái sư Văn Trọng" cũng tạo cơn sốt trong giới mộ điệu Lục Tỉnh (11).

Từ đó cải lương miền Nam đã có một Đệ Nhứt Danh Ca Út Trà Ôn, một giọng ca đi vào lòng bao thế hệ. Đến khi dĩa "Tình Anh Bán Chiếu " được hãng Hồng Hoa phát hành, ký giả Nguyễn Ang Ca gọi Út Trà Ôn là "Vua Vọng Cổ ". Từ năm 1954 "Vọng Cổ nhịp 32 " xuất hiện, tiêu biểu nhứt là bài "Đội gạo đường xa" của Kiên Giang được Hữu Phước hát rất ngọt, rất mùi. Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu là người đầu tiên đưa Tân Nhạc vào Vọng Cổ tạo thành loại hát Tân Cổ giao duyên. Tuy nhiên các bản Tân Cổ Giao Duyên được rút ngắn thành Vọng Cổ 4 Câu thay vì 6 câu nhịp 32 như trước.

Như trên đã nói, cấu trúc âm nhạc Miền Nam là Cấu trúc phóng khoáng, động và mở. Nó biến chuyển không ngừng nhưng vẫn giữ cái gốc ban đầu. Soạn giả Nguyễn Phương đã viết: "Đặc điểm của bài Vọng Cổ là tự do trong khuôn phép. Bản Dạ Cổ Hoài Lang được dùng như một cái khung (còn được gọi là lòng bản) để trên đó mỗi người nghệ sĩ tự do sáng tạo theo cảm hứng của mình.

"Bởi vậy khi mới nghe thì bản Vọng Cổ có vẻ giống nhau, nhưng thật ra thì không ai đờn giống ai, không ai ca giống ai nhưng cũng không ai thoát ra khỏi những chữ nhạc đã được qui định trong mỗi khung nhạc nên không làm mất đi cái bản sắc của bài Vọng Cổ." (Thời Báo số 743 ngày 26/03/ 2004)

Thật vậy, về giọng ca nức nở của Vua Vọng cổ Út Trà Ôn, hai soạn giả Nguyễn Phương và Viễn Châu đã hết lời ca ngợi. Đó là "giọng ca có hơi đồng trầm ấm, phong cách ca ngâm khoan thai, chững chạc... giọng ca không chân phương quá mà cũng không luyến láy kỹ thuật quá, nhưng từng lời từng chữ rõ ràng truyền cảm khiến cho người nghe thấm sâu ý nghĩa của bài ca" (Nguyễn Phương, Thời Báo số 743)

Riêng soạn giả Viễn Châu đã viết: "Bài bản Cải lương có nhịp nhàng, ai ca cũng trúng nhịp được, giống như con tàu cứ vô ga là phải ghé, nhưng ảnh (Út Trà Ôn-NKT) không ghé như công thức như người ta mà về trước một chút, lòn ở phía sau một chút, rồi lại lướt lên trên để rồi mới ghé về đích, nên đường đi của ảnh lả lướt không ai bằng." (Thời Báo số 612 ngày 21/09/2001).

Nếu Út Trà Ôn lên ngôi "Vua Vọng Cổ" thì soạn giả viễn Châu với hơn 2000 bài ca mà bài nào cũng êm ái quyến rũ lòng ngươi được giới mộ điệu tặng luôn danh hiệu "Vua viết bài ca Vọng Cổ". Hai Ông Vua ấy quả thật có mối duyên kỳ ngộ, là một cặp tri âm Bá Nha-Tử Kỳ thời đại.

Sau sự thành công của Vua Vọng cổ Út Trà Ôn đặc biệt trong hai thập niên 60-70, nhiều nghệ sĩ thành danh và "hốt bạc" nhờ tài ca vọng cổ. (Xin xem Thời Báo số 743)

Vọng Cổ và Cải Lương là một cặp không thể thiếu như hình với bóng. Nó đã đi sâu vào mọi tầng lớp dân chúng từ bình dân đến trí thức, từ Nam chí Bắc: "Vọng Cổ giọng buồn não nùng, tha thiết, dễ cảm, dễ xót xa.. Vọng Cổ đã có ma lực mãnh liệt để quyến rũ giới bình dân miền Nam và cả giới trí thức nữa" (Toan Ánh, Cầm Ca Việt Nam). Và "Cái môn Cải lương ở ngoài Bắc rất được ưa chuộng. Cũng như dân Nam Kỳ, dân Bắc Kỳ cũng khoái 6 câu Vọng Cổ mùi rệu." (Tô Ngọc, Chọn Lọc số 51).

Ngoài ra giới Cải Lương còn biến hóa Dạ Cổ Hoài Lang thành những bản Vọng Cổ hài (Xin xem Thời Báo số 717). Theo thiển ý chúng tôi, đây là sự biến chuyển sau cùng của Dạ Cổ Hoài Lang nhưng vượt ra ngoài cái quy tắc vì không còn gi? nguyên xi cái gốc là NÉT SẦU của bài ca nguyên thủy.

Bài Vọng Cổ hài đầu tiên là: "Cộp...Cộp Bonjour thầy Ba" do ca sĩ Hồng Châu ca, hãng dĩa Asia phát hành năm 1940. Nhưng phải đợi đến năm 1960, hãng dĩa Lam Sơn phát hành bài Vọng Cổ hài "Đêm Tân Hôn" của soạn giả Viễn Châu do Văn Hường hát có thể nói rất ăn khách, một hiện tượng hiếm thấy trong thị trường dĩa nhạc thời bấy giờ. Sau đó với sự thành công hàng loạt về hát vọng cổ hài, Văn Hường còn được người đời phong tặng danh hiệu "Vua Vọng Cổ Hài".

Thay lời kết

Vọng Cổ là một hiện tượng độc đáo, là bản ruột, là cái nhụy của cải lương. Sau hơn 80 năm, bài Vọng Cổ vẫn là vị hoàng đế không ngai của nền âm nhạc miền Nam. Viết đến đây, chúng tôi hầu như được giải tỏa phần nào cái "Tâm sự Nguyễn Hiến Lê". Âm nhạc miền Nam nói chung và Vọng Cổ nói riêng có cái lịch sử của nó. Và lịch sử âm nhạc miền Nam là lịch sử tâm hồn dân tộc. Ở đây là lịch sử tâm hồn dân tộc miền Nam. Tìm hiểu những nét độc đáo của âm nhạc miền Nam trong đó có bài Vọng Cổ là tìm hiểu tâm hồn, tánh cách của dân tộc ở một vùng đất mới để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc của cả nước Việt Nam thân yêu.

Bất giác tôi nhớ tới mấy câu thơ:

 

Khi đất Bắc vang lên lời cò lả

Khi miền Nam vọng cổ ấm hương tình

Khi miền Trung vững lời thề sắt đá

Trong câu hò mái đẩy hẹn ba sinh.

 

Tôi cũng thấm thía lời phát biểu của giáo sư Nhựt Bổn Kishibe Shigeo trong hội nghị UNESCO tại Téhéran năm 1961 về bảo vệ vốn cổ: "Người Nhựt từ hơn một trăm năm nay đã cố gắng trèo lên những ngọn núi cao và đẹp của âm nhạc Phương Tây. Các đỉnh ấy là Beethoven, Mozart, Chopin. Khi đến đỉnh, chúng tôi thấy ở chân trời có một đỉnh núi khác cũng cao, cũng đẹp như đỉnh núi chúng tôi đang đứng. Đó là núi nhạc truyền thống Nhựt Bổn. Các bạn Châu Á, Châu Phi đừng mất một trăm năm như chúng tôi mới thấy trong nước các bạn cũng có những đỉnh núi cao đẹp như núi nhạc Phương Tây." (12)

Miền Nam nói riêng, Việt Nam nói chung đều có sẵn những núi nhạc truyền thống. Chúng ta khỏi mất công tìm kiếm đôi khi cả trăm năm những núi nhạc khác. Vấn đề ở đây là làm sao dung hòa được hai nền nhạc Âu và Việt trên căn bản vẫn giữ cái gốc của nó.

Để kết thúc, chúng tôi xin trích ghi nhận xét chí lý của Gs Trần Văn Khê như sau: "Trong Cổ nhạc Việt Nam chưa có bài nào bản nào được như bài Dạ Cổ Hoài Lang biến thành Vọng Cổ, từ một sáng tác cá nhân đã biến thành một sáng tác tập thể, sanh ra từ đầu thế kỷ, lớn lên, sống mạnh, phát triển không ngừng, biến hóa thiên hình vạn trạng mà sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt trong nước và rải rác khắp năm châu." (Thời Báo số 476)

Chúng tôi tin chắc như vậy.

Montréal, Quý Xuân 2008

Nguyễn Kiến Thiết.

 

Chú thích:

(1) Trần Văn Khải: Nghệ Thuật Sân Khấu Việt Nam. SG, Khai Trí xb. 1970.

(2) Trần Văn Khê: Dạ Cổ Hoài Lang, một xuất xứ buồn. Thời Báo số 476 ngày 12/02/1999.

(3) (5)Thuyết Phong: Thế Giới Âm Thanh Việt Nam, Hoa Cau xb. California

(4) (6) Nguyễn Phương: Ngũ đại Gia Sân Khấu Cải Lương, Montréal 2004.

(7) Vương Thư Sinh: Dạ Cổ Hoài Lang, Đồng Nai Cửu Long số 3 tháng 1/2006

(8) Nguyễn Kiến Thiết: “Tánh Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam” - Tiểu Luận Án Cao Học Văn Chương Việt Nam. Bản in Ronéo - Đại Học Văn Khoa Sài Gòn 1972.

(9) Nguyễn Văn Xuân: Khi Những Lưu Dân Trở Lại, SG, Thời Mới xb. 1969.

(10) Toan Ánh: Cầm Ca Việt Nam, SG, Lá Bối xb 1969.

(11) Người Tân Định: Lá Thư Sài Gòn. Thời Báo số 612 ngày 21/09/2001

(12) Trần Văn Khê: Âm Nhạc Đông Nam Á. Đông Nam Á xb.

Địa chỉ liên lạc:

Nguyễn Kiến Thiết

1150 Beaulieu

Saint-Laurent, PQ,

H4L-3G7

Canada

Tél.: (514) 331-0398

E-mail: nguyenkienthiet@hotmail.com