SỰ TÀN ĐỘC CỦA
CHỦ NGHĨA VÔ SẢN
VĨNH NHẤT TÂM
“Nhất thiết loài người, khi mới sinh ra, người nào cũng có thể dắt vào đường tốt, có can hại gì mà đến nỗi mất nhân cách? Người sở dĩ mất nhân cách chỉ vì hoàn cảnh lùa đẩy, hoàn cảnh tốt thời tốt, hoàn cảnh xấu thời xấu.
Hoàn cảnh tốt là gì? Là tiền của có sẵn luôn, gọi bằng hữu hằng sản; hoàn cảnh xấu thì trái thế, một bửa no mười bửa đói, một ngày đủ mười ngày thiếu, không tiền của sẵn luôn. chính là vô hằng sản.
Tuy ở trong loài người có một hạng người mà ta gọi bằng thánh hiền, dầu đụng lấy hoàn cảnh xấu (vô hằng sản) mà tâm địa thường tốt luôn, (hữu hằng tâm). Những hạng người ấy quá hiếm, chỉ duy đạo đức cao, học vấn tốt mà làm một hạng người “sĩ” mới hay được như thế. Còn đến lớp dân phổ thông thời vì vô hằng sản
tức khắc nhân đó mà vô hằng tâm. Nếu đã đền lúc vô hằng tâm thời tuông luồng., xiên vay, gian dối, bậy bạ, chẳng cái gì không làm. Đến khi đã làm điều xấu mà bị can phạm pháp luật, sụp vào tội ác thời những người có quyền chính trị vịn lấy cớ đó mà trừng phạt, chém giết họ. Thế thời những bọn có quyền chính trị đặt bẫy mà sụp dân đó vậy. Làm chính trị bạc ác để đến nỗi dân đói rét , khi họ vì đói rét mà sụp vào tội thời lại giở pho luật ra mà trừng phạt, chém giết họ, chẳng phải thả bẫy sụp là gì?”
(PHAN BỘI CHÂU - Khổng Học Đăng)
Trích dẫn từ: “Việt Nam Tam Dân Chủ Nghĩa Chính Cương”
Chi Bộ Đặc Biệt Quốc Ngoại Ấn Hành 1992
ANH HÙNG TIẾP BƯỚC
TIỀN NHÂN GIỮ NƯỚC
(Tưởng niệm Anh Hùng tiêu biểu trước
và sau 30- 04- 1975)
Dòng Việt-tộc trước sau dù dâu bể;
Phải chủ quyền mới độc lập giang san.
Phải tự do nước mới mạnh dân an
Ấy là lẽ quang minh vòng chính đạo.
Nhưng nghiệt thay! Cả bọn người thô bạo
Cùng giống nòi mà lòng sói, dạ lang;
Đúng dã tâm đi cướp đoạt giang san...
Dùng thủ đoạn thật đê hèn, bất chính.
Bao biến đổi thăng trầm vì quyền bính
Chúng đưa dân vào bỉ cực lâm nguy.
Ngẫm mà đau bao công sức trường kỳ,
Của tiên liệt đã dày công giữ nước.
Kể sao hết những Anh Hùng sau, trước!
Mấy ngàn năm đuổi bọn giặc Bắc phương.
Ngót trăm năm dẹp được giặc Tây phương,
Đã đem máu tô cho cờ độc lập...
Thật trớ trêu, bọn vô thần quỉ nhập!
Cướp công trình của muôn vạn sinh linh;
Mang âm mưu do đế quốc trá hình,
Làm nô lệ dựng chiêu bài Mác-xít.
Đưa dân nước vào con đường mù mịt,
Chưa bao giờ phải cùng cực, suy vi...
Ách ngoại nhân nhận chủ ngghĩa man di,
Xé đất Mẹ thành hai miền Nam Bắc.
Mau hào kiệt trước sau vì xã tắc
Giữa gọng kềm ba thế lực ngoại lai;
Đã vô lương tận dụng những tay sai,
Dâng đất Mẹ làm chiến trường thí điểm.
Mấy mươi năm trải dài trong cuộc chiến,
Mất chủ quyền trên một dãi giang san.
Để đạn bom phá vỡ đến điêu tàn,
Đẩy dân Việt vào tương lai: tử đạo.
Hàng con cháu của Quang Trung, Hưng Đạo...
Từng lớp người đi bảo vệ quê hương.
Quyết đập tan những huyền thoại “thiên đường”
Của Hồ tặc mang voi dày đất tổ.
Bao chiến sĩ hóa ra người thiên cổ!
Xương, thịt mình vun xới mảnh quê hương,
Máu, da vàng nhuộm thắm nước Hùng Vương.
Cho Việt-tộc không rơi vào diệt chủng:
Phạm Phú Quốc vượt không gian lồng lộng
Cánh chiêm bằng vang dội khắp muôn phương;
Mang theo Anh một sứ mệnh phi thường
Phá sào huyệt, diệt quân loài quỉ đỏ.
Anh ra đi...muôn thu vào đất tổ,
Hiến đời trai, tô điểm dãy giang sơn
Cho màu cờ độc lập dưới vừng dương,
Cho dân tộc khỏi rơi vào xiềng xích.
Nguyễn Văn Đương, anh hùng lưu chiến tích,
Đồi “Tử Thần” còn ghi mãi tên Anh.
Lòng can trường xem nhẹ giữa tử, sanh...
Quyết tiêu diệt quái thai loài “vô sản”
Nơi sào huyệt, đất Hạ Lào, giới tuyến
Mãi âm vang con cháu giống kiêu hùng
Không thể nào nhìn quốc phá, gia vong
Trong cuồng vọng của lũ người vô đạo.
Nguyễn Đình Bão, vị thiên thần Mũ Đỏ,
Bước hiên ngang trang sử Việt oai hùng...
Trên đồi cao, nơi rừng núi chập chùng,
Cạnh An Lộc, địa danh lừng chiến sử...
Đồi Chạt-li (Chalie) mang Anh vào bất tử!
Thân Anh nằm trong tấm vải khăn sô.
Máu của Anh tô thêm đậm màu cờ
Cờ Chính Nghĩa của giống nòi dân Việt.
Nguyễn Khoa Nam, người tài cao, dũng liệt
Chết huy hoàng cho con cháu ngày mai.
Cho tiền đồ, đất tổ ở tương lai,
Noi gương sáng ngàn thu dòng Lạc Việt.
Máu hào kiệt tô ngời trang bất khuất,
Như nước nguồn lưu chảy mãi thiên thu.
Không vì danh, chẳng vì lợi riêng tư,
Vì dân tộc muôn năm tình bất diệt.
Lê Văn Hưng vốn con dòng tuấn kiệt,
Mấy ngàn quân giặc Cộng cũng tan tành.
Nơi chiến trường An Lộc mãi lưu danh,
Chôn chuyên chính nối ngời dân chủ Việt.
Người đã thác! Danh đời đời không thác!
Hồn sống còn cho độc lập, tự do...
Không nhân danh thứ diệt đế tái nô,
Chỉ tranh đấu cho chủ quyền dân Việt.
Lê Nguyên Vỹ, người giữ tròn khí tiết;
Gương anh hùng muôn thuở của Bình Long.
Quyết noi theo Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương...
Không để giặc làm ô danh sử Việt.
Trai đất Việt luôn giữ lòng thanh khiết;
Bằng trái tim dân tộc với niềm tin...
Hết một lòng theo sự nghiệp tổ tiên,
Cho xứng đáng đứng trong cùng vũ trụ.
Hồ Ngọc Cẩn hiên ngang hồn bất tử!
Vẫn một lòng, một chí giữ quê hương.
Phút hiểm nguy vẫn dòng máu quật cường,
Khi phỉ Công đem Người ra hành quyết.
Trần Văn Hai như bao người tuẩn tiết!
Bậc anh hùng có lúc cũng sa cơ...
Không thể nào để bọn giặc làm nhơ,
Đó là lẽ sách “Trời Nam”, đã định.
Dân tộc Việt mấy ngàn năm bất dịch,
Gương anh hùng không thể luận vu vơ...
Rước ngoại nhân để thực hiện ý đồ,
Trên xương máu của giống nòi dân Việt.
Phạm Văn Phú đã một thời oanh liệt,
Rất can trường nơi mặt trận biên khu;
Nhưng chẳng may rơi vào thế hỏa mù...
Bọn vô sỉ chơi lắm trò ma thuật....
Người đã biết hoàn toàn sai chiến thuật,
Lệnh ban hành: “Triệt thoái khỏi cao nguyên!”
Nhưng làm sao khi thế cuộc đảo điên,
Đành ôm hận cho đến giờ tắt thở
Nguyễn Vĩnh Liệu đã hiên ngang trả nợ!
Chí tang bồng không hổ thẹn nam nhi.
Giữ một lòng và chấp nhận hiểm nguy
Tròn tiết nghĩa, tấm lòng son trai Việt
Khi Nam-Tín lâm vào giờ khắc nghiệt,
Anh bình tâm cho đến phút sau cùng..
Vẫn ung dung trong khí phách oai hùng,
Thà chịu chết không buông tay cho giặc.
Dân nước Việt sẽ một mai khôi phục,
Vì giang sơn, vì dân tộc sống còn...
Không thể nào để cho lũ giả nhơn;
Phản dân tộc, mang voi giày đất tổ.
Trần Văn Bá lên đường không do dự,
Thắp lửa thiêng vùng dậy chí phi thường.
Mưu tìm đường quang phục, cứu quê hương,
Đang rên xiết trong tay loài nanh vuốt.
Anh đã thác! Dù chưa thành đại cuộc,
Vẫn còn Trần Văn Bá nối nhau đi...
Tiếp lửa thiêng theo sứ mệnh cứu nguy,
Đưa dân tộc thoát khỏi vòng bị trị.
Dòng lịch sử trải qua bao thiên kỷ...
Có bạo quyền , cò tranh đấu không ngưng;
Sống theo gương chí lớn của Trưng Vương
Đã vạch rõ lằn ranh quyền tự chủ.
Còn trời đất, còn tiếng vang hùng sử
Sự tồn vong đã xác định rõ ràng;
Cho cháu con sau kế nghiệp kinh bang,
Quyền tự chủ là niềm tin vĩnh cữu.
HIỂM HỌA 30-04
Lạc Hồng, trang sử ngàn năm
Giang sơn một cõi, trời Nam oai hùng
Ải Nam Quan thế biên phòng
Bao triều phương Bắc...không ngừng thây phơi.
Ngàn thu không đội chung trời,
Xưa nay Việt, Hán hai trời đối nhau.
Thư hùng mấy trận trước sau,
Bắc, Nam bờ cõi phân mao rõ ràng.
*
Tổ Tiên dựng nghiệp vững vàng
Non sông kỳ vĩ, trời Nam Lạc Hồng..
Tiếc thay sự nghiệp Quang Trung,
Còn đang dang dở, hóa công an bày...
Băng hà giữa lúc đắng cay,
Não nùng non nước... phủ đầy tang thương .
Gặp Nguyễn Ánh lúc tranh vương,
Dựa vào nước Pháp tìm phương san bằng.
Thắng Tây Sơn, đoạt ngai vàng,
Sau năm thập kỷ ngoại bang cổ tròng.
Mấy đời hậu bối Gia Long,
Non sông nghiêng ngửa giữa dòng trầm luân.
Bắc, Trung, Nam khắp ba Miền
Anh hùng hào kiệt liên miên pháp trường.
*
Sáu mươi năm, một chiến trường
Con dân nước Việt đuổi phường thực dân.
Quyết sống chết, đảng Quốc Dân[1]
Tinh thần Yên Báy máu loang sơn hà.
Hy sinh vì nước Mười Ba...[2]
Lòng dân căm phẩn xông pha diệt thù.
*
Bừng bừng “Cách Mạng Mùa Thu”
Vừng hồng độc lập càng mù mờ hơn.
Bởi tay loại ốc mượn hồn[3]
Theo đuôi chủ thuyết vô thần Mác Lê.
Dìm dân vực tối u mê
Mượn danh chống Pháp dể bề mị dân.
Thừa cơ tiêu diệt từng phần,
Những nhà Ái Quốc vì dân một lòng.
Đuổi thực dân thoát xích còng!
Than ôi! Bi thiết nỗi lòng ai hay?
Ngấm ngầm “ném đá dấu tay”
“Bác Hồ vĩ đại” có ai sánh bằng!
Ai người yêu nước; hỏi lòng đau không;
Giang sơn đất của cha ông
Đem dâng cho kẻ thù chung: Bắc triều
Ải Nam Quan, tuyến địa đầu
Là nơi hiểm yếu chống Tàu ngàn xưa.
Bây giờ “cõng rắn” về đưa
“Khôn nhà dại chợ” cho vừa tiệc khao
Ăn chơi; giở giọng rêu rao...
Biển dâng Trung Cộng ôi chao ngược đời.
Lâu rồi một lũ đười ươi:
Cháu con Các-mác. Xin Trời nhổ gai
Non thế kỷ một quái thai
Hỡi người dân Việt trong ngoài nghiệm xem.
*
Một hiểm họa, tháng Tư đen
Muôn dân bất hạnh “đỏ, đen” bao trùm.
Quê hương trên khắp ba vùng
Cả Nam, Trung, Bắc đều cùng nô dân.
Chỉ hơn ba triệu nhanh chân
Thoát tay giặc đỏ yên phần tự do.
Phần còn lại đến bao giờ
Thóat vòng khổ ải. Cập bờ văn minh?
Bao tù nhân chịu cực hình
Vì dòng Việt-tộc giữ tình sắt son.
*
Và bao nhiêu triệu oan hồn
Vẫn còn vật vưỡng mõi mòn biển đông.
Nhà tù, biên giới, biển, sông,
Đường rừng: con, cháu bế bồng. Ai mong...?
Biết bao số phận má hồng?
Đảng đem bán, gã tấm chồng ngoại bang.
Vậy mà miệng lưỡi ác gian
Vẫn không biết nhục mỗi khi... ăn mày.
*
Trải qua mấy chục năm nay
“Đại đồng” là thế! Ôi loài giả nhơn!
Trước lịch sử đã bao lần
Một dòng sinh mệnh tự thân trường tồn.
Tại sao Việt Cộng lắm mồm?
“Diên Hồng” hội nghị chưa gom hiền tài???
Vĩnh Nhất-Tâm 30-04-2007