Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

NỮ-SĨ VI KHUÊ

 

LÊ XUÂN NHUẬN    

     

TRỤ-SỞ Đài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn cuả sông Hương, cạnh mé Tây cuả đầu cầu Trường Tiền, đối-diện đại-khách-sạn Morin bên kia đại-lộ Duy Tân.

Thuở ấy, chưa có các Đài cấp Tỉnh, Đài Huế là Tiếng Nói chung cuả cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh, xuýt-xoát Đài Quốc-Gia và Đài Pháp-Á (Radio France-Asie) cuả Pháp ở Sài-Gòn, nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam.

Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức đọc chậm cuả Đài Sài-Gòn.  Trong tình-hình đó, Đài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày cuả đồng-bào Miền Trung, và cuả những người ở phiá ngoài Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung.

NGOÀI những tiếng hát cuả các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca cuả toàn dân, giọng bình và ngâm thơ cuả các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát cuả các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ cuả mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến cuả Service d'Information, những ai đã từng nghe Đài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính cuả Đài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng.  Giọng đọc cuả người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức, vì không bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý nghiã của câu văn.

Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Đài Huế thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng trên cuả một buồng-kho bên hông trụ-sở Đài .  Một cầu thang nhiều bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”.  Đó chính là cô xướng-ngôn.

SAU ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Đài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội cuả tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời .

Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu".  Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng nói trời cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn.

Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ cuả nàng hồi đó chỉ là tâm-tình cuả bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô”.

*

TÔI thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.

Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo “Ý Dân”, là người chọn chủ-nghiã cộng-sản để chống chủ-nghiã thực dân, và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm Bá Nguyên, chủ-nhiệm báo “Công Lý”, là kẻ nhận Đệ-Tứ thay cho Đệ-Tam.  Tôi lui+tới với Duy Sinh nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo cuả Nguyễn Bách Khoa .  Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng Nói cuả Dân Nghèo” cuả Vân Sơn PMT (Phan Mỹ Trúc).  Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ sĩ thân-nhân ấy cuả Vi Khuê .  Tôi tiếp xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong “Con Thuyền Không Bến” cuả Nguyễn Vũ Ban.  Tôi thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cưả Thiền trong “Không Bến Hạn” cuả Huyền Không.

 

Tôi ủng hộ cả hai đường lối phuc-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính cuả người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà cuả các chính-trị-gia không cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do.

Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo Đại thì quá yếu mềm mà đế-quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam, nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai Thời Loạn” để gửi gắm ý mình, và kết-quả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có các ông Cao Văn Chiểu, Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được thả ra.

Để tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Đoàn “Xây Dựng”, xuất-bản các tác-phẩm cuả mình và cuả các bạn từ Bắc chí Nam.  Mới bắt đầu thì Nhất Hiên (Phan Nhật Hiến) bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị (Bùi Chánh Thời) cũng nhảy lên chiến-khu.

Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như tia sáng ở cuối đường hầm.

*

THÁNG 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị động-viên chuyên-môn.  Lê Đình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân.  Tchya (Đái Đức Tuấn) và Nhất Lang thì đồng-hoá sĩ-quan.

Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng Kèn”, cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận động trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Đài “Tiếng Nói Quân Đội” tại Miền Trung.

Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở cuả Đài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên.

Thay chỗ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời .  Tôi đưa Văn Giảng lên thay .

Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề.  Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia cầu Trường Tiền; cặp Châu-Kỳ--Mộc-Lan cuả giới ca-nhạc, cũng như Hoàng-Pha--Phương-Khanh cuả giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây.

*

RỒI thoả-ước Geneva ra đời.

Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được thế-giới chú ý hàng đầu: cô Thiên Hương, con gái cuả nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền thông; cụ Võ Thành Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào cảnh-sát Thụy-Sĩ vào cắm trại trên bờ hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng cuả người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và ông Nguyễn Quốc Định, Trưởng Phái Đoàn thuộc chính-phủ Bảo Đại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thưà-nhận việc đất nước bị qua-phân.

Thủ-tướng Ngô Đình Diệm cử ông Trần Văn Đỗ đến thay .  Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến Hai làm ranh-giới Bắc Nam.

*

ĐẠI-TÁ Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là trung-tướng Nguyễn Văn Hinh (con của cựu thủ-tướng Nguyễn Văn Tâm, thân Pháp), mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong.  Theo chương-trình chính-thức thì thủ-tướng Diệm sẽ từ Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này.  Theo kế-hoạch riêng cuả cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô "Đả Đảo" cùng với trứng thối và cà chua .  Câu hỏi nổi bật là “Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia ?”  Các bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi .

Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác tác-động tinh-thần này .

Thành Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến.  Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Đại-Nội, phiá Bắc sông Hương; nhà ông Ngô Đình Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam, phiá Nam sông Hương.  Bộ-phận “Tiếng Nói Quân-Đội” cuả tôi lại đặt trụ-sở tại Đài Huế, trên bờ phiá Nam.  Để biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Đài Phát-Thanh.  Các chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai .

Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có cố-vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào.

Ở Quảng-Trị, một đơn-vị vũ-trang cuả Đảng Đại-Việt ly-khai lập chiến-khu chống lại chính-quyền Diệm.  Đổ máu giữa những người không-cộng-sản với nhau .

Đảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi .  Tôi không theo đảng nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Diệm, với chủ-trương “Đả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”, để được sự giúp-đỡ cuả Hoa Kỳ.  Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã diù dắt Tây Đức, nâng nhấc Nhật Bản, và cứu vớt Đại Hàn.  Trung-tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh Mặt Trận Nam–Ngãi, đã phát-biểu với trung-tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu, trong khi ông lái xe ra đón Tố vào: “Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục vụ cho thằng nghèo!”(!)

Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ Ngô.

Bộ Tham-Mưu cuả Xương không tin-tưởng ở tôi.  Họ lập hẳn một Đài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội -- dân-chúng gọi là "Đài bí-mật" -- để tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm và hô-hào dân-chúng nổi lên.

KHÔNG còn bị cấp trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng Nói Quân Đội” để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa Kỳ.

Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh cụ Ngô Đình Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên ông Ngô Đình Diệm, ngoại trừ một số ít trong giới Ky-Tô-Giáo có đọc tờ báo "Tinh Thần" thời-gian gần đó.

Chương-trình phát-thanh cuả tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn sóng cuả Đài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc “Đài bí-mật” thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.

Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài "của tôi" và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Đài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất trong Quân Lực đã đứng hẳn qua phiá Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói cuả mình, chống lại phe yếu thế Hinh–Xương.

Tòan-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.

Từ đó, các phần-tử thân-Diệm mới dám đứng ra khỏi vùng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người.

*

TRONG những tháng ngày gay cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Đài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời . Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê cuả giới thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca .  Nhưng “nàng bồ-câu” vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu óc tôi đã bỏng rát những tính-toán mưu-mô, thân xác tôi đã bầm dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về văn-phòng để thư giãn cho những căng thẳng thần-kinh.

*

THỦ-TƯỚNG Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương.

Hoa Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại đại-khách-sạn Morin.  Giám-Đốc Thompson A . Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt chân đến Miền Trung.  Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Đài, có Tôn Thất Đát phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ đại-tá Richardson, Trưởng Phái-Đoàn quân-sự Hoa Kỳ T.R.I.M.  Lớp dạy tiếng Anh cuả tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng Anh qua đài phát-thanh cho thính-giả Việt-Nam.

*

ĐẠI-TÁ Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho thiếu-tướng Lê Văn Nghiêm.

Đại-úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng Phòng 5.  Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay.  Nguyễn vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng Chiều” là “Hoan-Hô Lê Thiếu-Tướng” theo lệnh cuả Hùng.  Để giúp Tôn Thất Đậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hằng chục Toà Đại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âm-nhạc cuả mỗi nước, và đặc-tính cuả mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày.  Giáo-sư Lê Hữu Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Đình Phương đến ngâm thơ.  Trình-bày “Mục Th- Ca” cuả tôi là Trần Anh Tuấn, Đinh Lợi, Lan Hương, và Tâm Thanh (Tôn Nữ Kim Ninh).

*

Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi, phong-trào đòi tự-trị cuả người Thượng nổi lên.  Chính-quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt “Thượng Tự-Trị” về tập-trung ở đầu cầu Nam Giaọ.  Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu cầu Phú Cam.  Hùng kiêm-nhiệm Nha này.  Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây .

Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông Hương.

Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc Hoa-Kỳ,  được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận.

TRONG những năm trẻ-trung cuả nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà ấy, Liên-Xô, Hoa-Cộng và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất nước Việt Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa Kỳ thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài cuả mình và cái tiền-đồn mới lập này của họ ở Đông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng.

Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng.  Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các tay chân thân-tín cuả Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi .

Ông Ngô Đình Khôi, bào-huynh cuả Diệm, từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương.  Ông Ngô Đình Luyện làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ông thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vưà lòng thế-gia .  Huống chi các “Cố Vấn” hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh.  Dù không muốn nhâp-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáo-ngữ đã thành công-thức chóp lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh, bào-đệ cuả Người!”  Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan.

Trung-tướng Thái Quang Hoàng thay thế Lê Văn Nghiêm.

Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Đài cuả tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường.  Nhạc-sĩ Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây giờ anh làm Quản-Đốc Đài, kiêm Đại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế danh-dự với Đại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v... trong những buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu.

Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Đội thẩm-vấn tới, điều-tra lui .  Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Đài Quân-Đội từ khi còn Hinh+Xương.

Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm.  Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!”  Đến sở, tôi hỏi đại-úy Hùng thực/hư thế nào; ông liền gọi điện-thoại cho Quân-An, và cơ-quan này đến bắt tôi .  Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là Việt Minh.  Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi cuả tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời.

NGÀY xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn.  Bây giờ đã ở trong ngành Tác Động Tinh Thần, dù cuả Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái cuả tấm huy-chương.

Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cưu-Hoàng Bảo Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại diễn-đường Morin.  Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay .  Mặc dù Hội đã nhấn mạnh rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Đậu Tiến Mai vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.  Bác-sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Đốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với bác-sĩ Trần Kim Tuyến, Giám-Đốc Nha Nghiên-Cứu (tức cơ-quan Tình-Báo Trung-Ương) thuộc Phủ Tổng-Thống, thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây đối-lập cuả chế-độ đương-quyền.

Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung.  Có người nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơ trong đó có câu “Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”  Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh Trời Mai” của tôi, v.v...

THẾ nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ thi+ca+nhạc+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hoà-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn cuả tôi.  Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị cuả Đài, mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghiã cuả sự hiện-diện cuả Đài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi .

Vi Khuê thì trầm lặng hơn họ và có một thế đứng riêng.  Nàng không ca hát nhưng số khán+thính giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng cuả Đài.  Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Đài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư...

 

 

 

THẾ rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Đài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.

Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Đội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình, vận-động đồng-bào hưởng-ứng đầu-phiếu truất-phế Bảo Đại; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm Chính-Nghiã” đề-cao Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần Trăng Mật” vinh-danh tình yêu vợ+chồng, lấy hứng từ Luật Gia-Đình cuả bà Ngô Đình Nhu ...

Tôi giữ mục “Vườn Thơ” trên “Rạng Đông” cuả Lê Hữu Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ cuả các bạn gần xa và cuả chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Độ, Tô Như, Quốc Dân... ở Đà Nẵng, đồng nhóm Xây Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi, Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v... ở Sài-Gòn.  Trong đó, tôi giữ mục “Hội Thơ” trên Văn-Nghệ Tiền-Phong cuả Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát phát hành.  Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu, Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v...; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Hữu Đỗ, Tuyết Lộc, Hoài Tâm, Hương Thu, Khang Lang, Xuân Nghị, Thanh Thuyền, Thế Viên, Kim Lan, v.v...; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên Nghị từ đơn vị về, Hồ Đình Phương từ Long An ra ...

Đại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần: “Xây Dựng” cuả tôi được nhìn-nhận là một cành cuả Cây Đa Văn-Hiến Việt-Nam.

Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa .  Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Đà Lạt sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng cuả những ai ai ...

*

SAU khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập Đạo Đức cuả Ngô Tổng Thống cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi học-tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Đắc Phương rồi ném xác xuống sân tri hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở cuả anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san “Phục Vụ” mà tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động tham-lam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn; v.v...; tôi đã liều-lĩnh công-khai nêu lên một số khuyết-điểm cuả chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập vào Lễ Hai Bà Trưng, năm 1960.  Biến-cố này gây chấn-động cả Miền Trung.  Kết-quả là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu...

Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên "vùng nước độc và nguy-hiểm" với bụi đỏ mù trời.  Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng 1-11-1963 mới được ấn-hành thành tập “Với Thượng-Đế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.

*

QUA đến Đệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ Nguyễn Văn Thiệu.  Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay ...

  

GIỜ đây, tôi trở về Huế lại.  Ngồi trên ghế đá công-viên trước Đài Phát-Thanh, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua.

Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn Bửu Kế, Phan Khoang...; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh...; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các kịch-sĩ Vũ Đức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi ...; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên...; các ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến, Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương...

Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình cuả Huế, Anh-Độ Đỗ Cẩm Khê cuả Đà Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền Chi từ sau khi nàng lấy chồng.  Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc đã vuột khỏi tầm tay tôi .

Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ lên Bến Ngự để anh gặp Nhã Ca, và buổi sáng củ-mật kia Hy Văn Mộng đến tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn...

Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân.  Nhưng Vi Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân.  Cuả vợ+chồng chúng tôi.  Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm Vàng” mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc “anh gánh dưa” một đồng mới toanh mà Vi Khuê đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào.  Hình ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân Anh, cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An Cựu vàng rực muà luá gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn cuả tôi với người bạn thân ấy cuả nàng.

Giờ đây Thành Huế đã bị tước mất một phần cái địa-vị thủ-phủ cuả Miền Trung, hoa-khôi Đồng Khánh ngày càng hiếm-hoi, Đài Huế xuống cấp làm Đài Tỉnh nhỏ, các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa ...

Đệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Đệ-Nhị Cộng-Hoà thế này.  Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.

Liệu những biến-thiên cuả cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?

Huế vẫn còn đây, Đài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây.

Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường - cũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ sót lại trong thời buổi mới - sự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi ...

                                                                                                                                        1973-75

(Trích từ hồi-ký "Về Vùng Chiến-Tuyến")

www.LeXuanNhuan.com