NHỮNG NGÀY Ở HẺM ĐỘI CÓ
NGUYỄN QUỐC TRỤ
1958. Học xong trung học, tôi thi vô trường Bưu Điện vừa mới được thành lập, sau một năm lân la làm quen cái không khí đầy náo nức của tương lai như đang giục giã ở ngay đầu ngã tư của cuộc đời, ở một đại giảng đường đại học. Bạn thử tưởng tượng, một học sinh nghèo, sống chui rúc ở cuối con hẻm Đội Có, Phú Nhuận, nơi đám người nghèo khổ bám quanh thành phố, khi chiến tranh chưa dồn dập đem những tiện nghi vật chất tới tận giường ngủ, xó bếp, rồi lấy đi một số những người thân yêu của họ, chỉ biết xài đèn dầu, uống nước giếng. Đám thanh niên, ngoài những lúc tự an ủi nhau bằng những mối tình tưởng tượng, những tiếng hát nhái theo giọng Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch quanh cây
đàn ghi-ta bên cạnh giếng nước vào những lúc con xóm, sau một ngày mệt lả, mặc tình cho bóng đêm và muỗi đói hoành hành, chỉ còn cách kéo nhau ra phía sau dãy nhà lụp xụp, mặc tình ngắm nghía mấy cô gái họ vẫn thường trầm trồ mỗi lần thoáng thấy bóng. Các cô lúc này đang xắn cao quần, thoăn thoát giữa đám rau muống xanh um phủ kín mấy vũng nước đen ngòm, nguồn lợi thứ nhì sau mấy ao cá, một nơi hò hẹn khác nữa của đám thanh niên thiếu nữ, và của cả đám con nít. Buổi sáng đi học, nếu nhà không còn cơm nguội, đành nhịn đói, bỗng một ngày thấy như Alice lạc vào xứ thần tiên, lạc vào đại giảng đường Khoa Học, đại học Sài Gòn. Phở hồi đó có ba đồng một Tô, tiền ông Diệm, như sau này người dân miền Nam vẫn thường xuýt xoa, tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt! Những buổi sáng hiếm hoi, trong túi có mấy đồng bạc cắc Bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước bán hết mớ đồ xi. Mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, thường xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê mấy chiếc vòng mã não, chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy tài tử tân nhạc, cải lương... Tôi có cảm tưởng cả khu phố cũng xôn xao cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của nó: tô phở nơi đình làng Phú Nhuận. Trong hơi phở có chút hiền từ của những cây nhang, những lời cầu khấn của mấy bà đi chợ, tiện ghé đình ăn sáng và lạy Phật... Dĩa bánh ướt của cô gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con hẻm chừng mười lăm phút, rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ nhà, khi ra tới nơi, chỉ kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng những cử chỉ quen thuộc của cô còn nán lại phía nửa sau đòn gánh.
Khi đã đi làm, có chút lương bổng hàng tháng, có nhà do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không kịp ngoái cổ nhìn lại chấn xưa, có những buổi sáng sớm chạy xe vòng vòng, đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết đâu còn chút nào qua hương vị dĩa bánh cuốn Thanh Trì, tại con hẻm Trần Khắc Chân, Tân Định. Thứ bánh mỏng lét, không nhân, chấm nước mắm nhỉ màu mật, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng chút thơm tho của đôi ba giọt cà cuồng đầu tăm... Nhìn bước đi tưởng chậm chạp của thời gian, của thành phố thì đúng hơn, trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả tìm ra ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân, đế quốc, cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù… Nhìn bước đi chắc nịch của thời gian trên khuôn mặt xinh tươi của mấy cô gái ngày nào còn tranh giành đồ chơi, tị nạnh, đun đẩy nhau công việc, nay đã biết xấu hổ trước mấy cậu khách hàng. Hay tới 79 đợi một tô phở đặc biệt sau khi len lỏi qua đám bàn chật cứng khách, cố tìm một ghế trống, tới quán bà Ba Bủng, để rồi lưỡng lự giữa một tô bún ốc, bún riêu hay một dĩa bún chả giò... Ôi, tất cả chỉ vì thèm nghe cho được cái âm thanh ấm áp của mấy đồng bạc cắc Bà Trẻ cho ngày nào…
Bà Trẻ, vợ một người em ông ngoại, khi còn con gái nổi tiếng rất đẹp, thông minh, được cho ra tỉnh học, đột nhiên bị gia đình gọi về quê gấp. Bà đã đành lòng vùi dập ước mơ trở thành cô giáo của mình, làm vợ “thế” cho bà chị ruột, vợ ông Nghị, lúc đó bệnh nặng, đang chờ chết, để nuôi nấng dạy bảo đứa con gái của người chị, lúc đó còn ẵm ngửa, thực ra là để gìn giữ mớ của cải bên chồng, không cho lọt ra người ngoài, đúng hơn, không rớt tới đám con cái mấy đời vợ trước.
Sự hy sinh của bà không được đền đáp. Cô con gái sau này vẫn thường tỏ ra hỗn hào với bà, ý rằng bà đã sống nhờ tiền bạc của mẹ ruột cô ta, chưa kể nỗi ganh tị sau biến thành hận thù, rồi được Cộng Sản cho phép gọi là nợ máu, của mấy cô, cậu thuộc dòng vợ thứ nhất, thứ nhì... Họ tố bố địa chủ hãm hiếp mẹ nông dân, tố mẹ ghẻ ngoài cái tội thù ghét, hành hạ con chồng, còn can tội giấu giếm tiền bạc, của cải... Bà Trẻ cuối cùng đã may mắn đem đứa con trai độc nhất, ông chồng, cô con gái xuống Hải Phòng rồi vào Nam.
Ông Nghị, tướng người cao lớn, mấy đời vợ, mấy dòng con, không kể con rơi con rớt, con “làm phúc” Bà Trẻ kể cho tôi nghe về một cặp vợ chồng hiếm hoi đã “nhờ vả”, ông Nghị, và đứa con gái, kết quả của mối tình "thả cỏ", của một bữa rượu say sưa bên mâm thịt cầy, trong lúc người chồng giả vờ mắc bận bỏ ra ngoài, đã bị câm ngay từ khi lọt lòng...
Nghe bà kể, tôi mơ hồ nhận ra nỗi thất vọng của một người vợ, của một người đàn bà đã hy sinh một cách vô ích tuổi trẻ, nhan sắc, sự thông minh và luôn cả lòng tốt của mình. Nỗi đắng cay của một bà mẹ về đứa con trai duy nhất: cậu H. Tuy không tật nguyền, nhưng không thể nào là một đứa con của hạnh phúc, cho nên cậu không thừa hưởng được tính thông minh, chăm học của mẹ, không thừa hưởng vóc dáng cao lớn, đàn ông của bố, nhưng lại giữ nguyên được truyền thống của những người đàn ông trong họ, luôn coi người đàn bà mới là chủ thực sự trong gia đình. Cậu luôn tỏ ra bất lực trước bà chị cùng bố khác mẹ, một cô gái tuy chưa quá tuổi lấy chồng đã là gái già. Những lúc bị đay nghiến, hành hạ quá mức, cậu chỉ phản ứng bằng cách đập đầu vào tường. Âm thanh của sự nhẫn nhục không chịu ngừng lại trước ngưỡng cửa của chiến tranh: Trong những năm miền Nam bị Thần Chết ngày đêm đòi mạng, cậu H. đã áp dụng cái võ khí tỏ ra hữu hiệu nhất đối với cậu là tự hành xác để được hoãn dịch. Cậu nhịn ăn, nhịn ngủ, uống cà phê đen, uống trà đặc, hút thuốc lá... Không chịu ngừng lại mà còn vượt xa hơn nữa, tới miền đất của phúc phận, nghiệp duyên. Cuộc sống gia đình hạnh phúc của cậu những năm sau 1975, theo Bà Trẻ của tôi, là do đức Phật đã thấu tới nỗi đau khổ, lòng ăn chay niệm Phật của bà, nhưng tôi cho rằng ngài đã bị những tiếng đập đầu binh binh của cậu H. làm giật mình, nhìn xuống cõi đời ô trọc này...
Tôi viết dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài Gòn
28.3.66. “Tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu”. Ôi chao! Tôi đã có lần viết về cái cảnh thất thểu dưới mưa, chạy lẽo đẽo theo một cô bé nơi đường Cộng Hòa, ngay trước đại học Khoa Học. Và cái cảm giác giận dữ, mệt mỏi, theo tôi hoài, còn dai dẳng hơn cả mối tình...
Hãy viết về Sài Gòn cho chẳng riêng ai mà cũng là cho tất cả mọi người. Hãy viết về một thành phố trong cơn hối hả đi tìm người thân tưởng đã mất tích, và trong khi chờ đợi đã bồn chồn muốn có tất cả, muốn sống một lần, ngay lập tức, ngay tại đây... Hãy viết về một thành phố tưởng như nông nổi, tạm bợ, nhưng có khả năng cảm hóa, biến đổi tất cả những ai đã từng sống trong nó thành những tín đồ của một thứ tôn giáo, đạo miền Nam, đạo Sài Gòn... Hãy viết về những bạn bè đã thất lạc, đã lang thang nơi này nơi nọ mà địa chỉ cuối cùng còn nhớ được: Sài Gòn.