NHẬN DIỆN THI PHẨM
"VỀ BÊN SUỐI TỊNH"
CỦA NHÀ THƠ TUỆ NGA
DIÊN NGHỊ
Cửa ngõ tình yêu rộng mở từ phút nhận diện người khách bước vào với hành trang sáng tạo thi ca. Tình yêu, nguồn sáng rực rỡ, quyến rũ, mời gọi, quyện hòa mơ thực, khắc chạm dáng đứng người tình - một chân dung, đường nét, diện mạo đam mê; một ma lực nhiệm mầu chắp cánh cho những đối tượng đang yêu; đang thành khẩn tôn vinh giá trị vĩnh cửu của tình yêu.
Dần dà ngõ tình yêu mở ra nhiều lối ngõ khác, chỉ đường đi tới, trước mắt xôn xao giọng điệu, chập chờn hình ảnh, rộn rã âm thanh, ngợp trời hương sắc mà thơ cần tiếp cận, khám phá, sẻ chia... Không chỉ thuần tình yêu đời thường, lứa đôi nam nữ, còn tình yêu khác rộng lớn, hoành tráng, đa diện hơn - Tình Yêu vạn hữu, con người, vạn vật, vũ trụ, mang nặng triết lý nhân sinh, và những góc khuất tâm linh... cũng đánh thức, gõ nhịp, giải đáp những vấn nạn của cuộc sống vốn hữu hạn, phù du giữa dòng biến đổi nghiệt ngã của thời gian vô hạn, lạnh lùng, tàn nhẫn.
Tuệ Nga bước vào cõi thơ đã quá bốn thập niên thăng trầm dâu biển, đã một lần nhận giải Văn Chương Tổng Thống VNCH trước 1975. Tuệ Nga cùng Thơ tâm tình, đối thoại. Vì thơ mà miệt mài suy cảm, mượn thơ giãi bày khúc mắc chính mình. Cùng thơ, tri kỷ bước chung lộ trình chiều sớm, tâm sự sâu kín, tưởng cùng thơ được chia sẻ, mở lòng - đâu ngờ, cứ bước đi, lại lùi vào ngõ cụt.
Cho đến một ngày, tâm thức vọng âm rằng: “Cuộc đời bắt nguồn từ Không đi vào Có, cuối cùng mở về với “Vô” ở trạng thái Vô Vi. Vậy “Về Bên Suốt Tịnh” cũng chẳng xa, cũng không gần – loanh quanh, biến hiện không ngừng đâu đó.
Ngay trong thơ Tuệ NGA đã nức hương sắc tịnh thiền:
Hoa duyên bát ngát Hương Thiền
Là đây cõi tịnh giữa miền nhân gian.
Xác định ngay giữa nhân gian, trước mắt: cõi tịnh. Cõi Tịnh hiện hữu, được cảm nhận bằng tự ngã, nội tâm. Mặc không gian ngoại tại náo động, đa đoan, chìm nổi và ngọn sóng thời gian vẫn xuôi về, phủ trùm lên thân phận con người, không dừng nghỉ.
Tuệ Nga tránh nhìn thời gian vật lý, cuộc sống của thơ hồn sâu vào thời gian tâm lý. Bóng dáng thời gian tô điểm màu sắc của ước mơ - những bình minh đất trời mơ ước:
Sớm bình minh êm ả
Sương mướt lá cây xanh
Chuông nhẹ nhàng ngân tiếng
Mở trong hồn tịnh thanh.
Cây lá xanh tươi, ngấn đọng sương sớm, bình minh êm ả lạ thường. Màu xanh của lá, màu ngọc của sương, nếu không khơi thức bằng hồi chuông nhẹ nhàng từ một thiền môn nào đó, e rằng chưa hội nhập vào cõi hồn đang đợi chờ cái "tịnh" thanh thoát, khoan hòa. Tiếng chuông chùa cũng bắt đầu từ vắng lặng (Không) đi vào (Có) rung thành tiếng để trở lại với (Không) mãn tiếng... phải chăng là Tính Không từ uyên nguyên khai mở sự hình thành vũ trụ, cùng muôn loài, mang nghĩa vô thường.... nỗi hoài nghi ám ảnh con người thế tục – nỗi khổ đau trĩu xuống thân phận làm người mà Đức Phật bằng huệ nhãn đã thấu suốt "Đời là bể khổ”. Đời phải được giải thoát bằng cứu rỗi...
Cuộc đời - một khoảng cách xa xăm, một trùng dương mênh mông lại là một cõi tạm, đơn độc, sợ hãi đối với con người. Nhà thơ, kìm hãm được sức đe dọa, bằng những dòng thơ, cống hiến cho cái hư không huyền diệu từ buổi nguyên sơ, để cầu được thành mây, thành hoa trong chu kỳ rũ bỏ nợ nần trần thế:
Bờ xa hun hút dặm dài
Tiếng trùng dương, lớp sóng đời mênh mông
Thả thơ vào cõi hư không
Một vòng huyễn ảo, bềnh bồng mây hoa.
Dòng sống tỉnh thức của Tuệ Nga là tiếng chuông, là ánh trăng hòa đồng cảm xúc, tạo dựng ngoại tại, thế giới riêng của thi nhân. Đó là hình tượng dòng trăng thanh trong tinh khiết, đó là hồi chuông ngân nga diệu vợi, đủ gợi thức hồn người và cũng từ đó hồn thơ ngập tràn ý thơ huyễn mộng:
Dòng trăng tinh khiết, trăng thanh
Hối chuông tỉnh thức, cho mình vào thơ.
Từ trạng thái tỉnh thực, ngộ về thời gian chính là cuộc đời. Cuộc nhân sinh - theo quy luật tử sinh – trải qua bốn đoạn đang sinh hóa, bắt đầu được sinh ra (sinh), già nua (lão), bệnh tật, rồi chết (tử) - trở về với cái Không vĩnh hằng. Bóng tà thời gian trong thơ Tuệ Nga được minh họa nhiều trường hợp, nói lên nỗi phũ phàng ngắn ngủi của kiếp người, dù là bản thể, hoặc tha nhân, hoặc khách thể:
Ai đi giữa nắng chiều tà
Chiều rưng rưng, nắng nhạt mờ chiều phai.
Nỗi cô đơn của con người vào thời điểm xế bóng gờn gợn trống lặng đáng sợ như một chiều nắng xuống nhanh, nhường cho hoàng hôn đang thúc bách (chiều tà rưng rưng, nắng nhạt mờ, chiều phai...). Tiệm tiến thời gian xô tới hoang liêu, u ám!
Tịnh, Động - hai trạng thái đối lập, chẳng những trong triết thuyết xã hội, khoa học, mà ngay cả trong tâm linh. Bắt gặp Tuệ Nga trong vài dòng thơ đối chiếu, tiêu biểu, ẩn chứa nhiều lớp ý nghĩa về hợp tan, tan hợp:
Người vợ ngõ trúc trăng tà
Hạt sương nằm dưới cội hoa reo mừng.
Chiều tà báo hiệu ngày sắp qua, những trăng tà báo hiệu ngày sắp đến. Tịnh biến thành động (hạt sương reo mừng) như dự ước logic của bản thể, dù bản thể đắm say trong thể tịnh. Vẫn là một lối mơ về của con người đích thực giữa ta bà hệ lụy.
Thẩm thấu lời kinh, tiếng kệ Ánh Đạo Vàng, Tuệ Nga cũng không quên Duyên Nghiệp (Ta âm thầm chợt hiểu là Duyên, Nghiệp vậy thôi) nhằm phổ biến cho đời cái Tốt để tôn vinh, xiển dương; cái Xấu để lánh xa, trừ khử.
Nghiệp xấu hoặc tốt bắt nguồn từ cái ngã (cái Tôi). Cái tôi dục vọng vô minh ắt tạo nên nghiệp xấu. Hành động lương thiện, trong sáng ắt gặt hái được quà tốt.
Cái ngã do Tâm. Phật tại Tâm - Phật ở khắp mọi nơi và ngay trong tâm con người. Ý thức khẳng định viên mãn về Phật giáo, Tuệ Nga đã trở về qua thi ca, gặp lại bản ngã mình: Trở về ta lại gặp ta...
Gặp lại mình trong thể tịnh giữa cuộc đời, trong khi hiện tượng ngoại tại cùng lúc hòa đồng vào nội tâm an nhiên trầm lắng (Hoàng hôn bảng lảng, nắng tà huy rơi...) như một đại cảnh phác họa “Về Bên Suối Tịnh”.
“Về Bên Suối Tịnh”, hoài bão, ước mơ hiện thế đời này. Suối tịnh khỏi phải tìm kiếm xa xôi vạn dặm, ngọn suối nằm ngay trong bản thể, trái tim con người. Tuệ Nga đã mở rộng trang thơ, lấp lánh ánh sáng Tịnh Thiền.
Tìm về Suối Tịnh, cũng có nghĩa rời khỏi bến mê, về bên bờ Giác; là trở lại với mình bằng Nhân Duyên trong hành trình tiến hóa của Lẽ Đạo.
Diện Nghị
San Jose, tháng 1-2007