NGUYỄN MẠNH TRINH
DÕI THEO BƯỚC
“TRƯỜNG CHINH CHỮ NGHĨA”
CỦA DU TỬ LÊ
Với tôi, ở một hình dung chữ nghĩa nào đó, Du Tử Lê là một người đang việt dã giữa cuộc đời.
Thơ cũng như người, với đời sống mang theo, trải qua bao hệ lụy, như dòng máu rồi cũng chảy về cửa tim nhưng phải vượt qua bao ghềnh thác khúc khuỷu. Dù lục bát, năm chữ, bảy chữ, dù viết cho riêng mình hay cho người tình, cho bằng hữu, thủy chung thi ca vẫn là chuỗi thanh âm đòng vọng lại từ một cõi đời tan nát, muộn phiền. Vẫn điệu man mác, mênh mang và ngôn ngữ tha thiết lắng đọng, đã dàn trải trong thơ để từng chữ, từng lời là biểu hiện của vết thương chưa liền thịt của người đi xa nhớ về kẻ ở gần, và là tận cùng rốt ráo của những phần đời đã một lần trân quý nhất.
Mọi năm, với Du Tử Lê thường được đánh dấu bằng một, hai tác phẩm. Thơ, tùy bút, truyện ngắn, là biểu hiện rõ nét nhất của chàng, người suốt đời ở với văn chương. Với chàng, văn chương không còn ở mức của từ ngữ phù phiếm, mà văn chương là dsg thực, có tủy xương, máu huytế thật. Thơ là nỗi niềm của những đêm vắt tay thức trắng, và những ngày lang thang ở quán trọ đời sống. Những yếu tố ấy, trong tuyển tập Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà, lại càng rõ nét hơn...
Nếu một người thơ tạo được tinh chất riêng cho tên tuổi với những nguồn lạch, sông suối của cõi đời riên, đã coi như thành công một phần; thì với Du Tử Lê tinh chất ấy luôn luôn thay đổi với những phương cách làm mới đầy nỗ lực. Ông mải miết tìm kiếm, mải miết làm mới chính mình và hinh như chưa bao giờ hài lòng với thành quả của mình.
Một trong những cách làm mới thi ca của Du Tử Lê là sử dụng dấu gạch chéo “/” slash (có trong các dấu của computer) như là một ký hiệu, một dấu thêm và những dấu mà Việt ngữ đã có tự bao đời như dấu chấm, hai chấm, chấm than, chấm phẩy... Ông giải thích: “Anh đã biết khi chúng ta nói (học viết) bao giờ tiếng thứ nhì cũng xô đẩy tiếng thứ nhất, tiến thứ ba xô đẩy tiếng thứ nhì... Cứ thế, như một sâu chỗi hạt nước tiến về phía trước, rồi rơi xuống. Nó tựa dòng nước chảy về chỗ trũng. Tính Hoán Vị / Conversion, tính di động hai chiều / mobilization in the two way directions không hề có trong một câu nói, một câu thơ, hoặc văn. Ta càng không thể vắt ngược một chữ hay một nhóm chữ ở cuối câu lên đầu câu như con rắn có thể vắt ngược cái đuôi lên đầu nó. Nhân sự phổ thông của máy computer, máy này có dấu gạch chéo /, tôi đã dùng dấu ấy như một ký hiệu, báo thị cho người đọc biết rằng, những chữ ở sau hay ở giữa hai dấu gạch chéo, người đọc có thể hoán đổi vị trí của chúng, hoặc báo thị rằng chúng mang tính xô đẩy hai chiều thuận, nghịch... Với ký hiệu hay dấu gạch chéo này, người đọc thực sự trở thành tác giả thứ hai. Họ có thể có một câu thơ (văn) khác, theo sắp xếp của họ. Người đọc không bị đóng khung vào một mô tả, một trật tự thơ, văn cố định nữa. Trước đây, thơ văn của chúng ta tựa ngôi nhà tiền chế, người đọc chỉ có quyền nhận lấy hay chối bỏ mà thôi...”
Và với lục bát, Du Tử Lê đã tận dụng những dấu phẩy, chấm, gạch chéo để làm khác đi nhịp điệu cũ, rất nhàm chán của nó. Từ căn bản là nhịp chẵn hay nhịp cân đối, ông dùng các dấu để biến nó thành nhịp lẻ, nhịp chỏi. Như thế, với cách ngắt nhịp mớ, lục bát sẽ thoát khỏi các khuôn mòn du dương, trầm bổng mà những người làm lục bát thường ngần ngại để vượt qua.
Chúng ta thử đọc một bài lục bác mà trong đó, thi sĩ họ Du đã ứng dụng tất cả những phương các làm mới của ông. Bài Tôi Nào?:
cây song sinh hai bên đường
suối, tươi âm cảnh khuôn buồn khung, tôi
rừng trồi / hương / nuôi môi / vui
hạt khuya rụng / đỏ / góc nguôi, lắng, chờ
mưa song sinh sau chia, lìa
chấn thương khí quyển bão vừa xả tan
sông hồi tâm / gương / đen / đêm
lon con ký ức, lền, khên bón, chiều
tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?
Những dấu phẩy như những lát dao xẻ ra chuỗi ngôn ngữ để đứt rồi nối, và sau cùng òa vỡ, với những chuỗi âm thanh rền vang xa, vang xa: tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?... Tôi có cảm giác như thế khi đọc bài thơ trên. Ở đó có sự chia lìa đứt khúc. Ở đó có những tiếng rền rĩ tỏa lan rất xa. Vẫn là nỗi buồn nhưng là nỗi buồn rất ngấm, rất sâu. Ngôn ngữ đã góp phần vào với nhịp điệu để thành một khúc sầu của những nỗi niềm từ lâu nén lại, bây giờ vỡ bùng thành hơ thở của giọng đọc, của những dấu chấm than xếp hàng lừng lững đi vào cấm khu của cảm giác.
Một bài thơ tôi thích là bài: bài ca người vác thập tự giá, khai sinh ghi tên, họ: phạm nhuận. Một bài hành của những kẻ bất cần đời, của nỗi niềm những kẻ sinh ra lầm thế kỷ. Hãy khoan chê trách, hỡi những nhà đạo đức! Đừng buộc tội vội những tâm sự chân thật. Không có thao thức về thân phận đất nước, không có súng gươm về giải phóng quê hương! Ở một chỗ của riêng mình, thi sĩ vẫn là những người muốn biến tâm can mình thành những sợi đàn rung, để đồng vọng cùng với những khắc khoải đời người.
ngươi na ký ức về ngang phố
cất tiếng cười khua rộn núi, sông
trĩu hai tâm thất mưa năm biển
(riêng biển sau cùng: bạn tứ phương)
ta với ngươi: tiêu! biệt xứ này
đâu cần quá chén mới nghe say
hớp chung từng hợp đời dung, tục
dàn dụa quê nhà: mươi ngón tay
ta biết ngươi quen sống bất cần
chẳng nghìn tân khách? – cũng vài trăm
người xưa bại sản vì mê bạn
ngươi gớm hơn nhiều! – đợ cả con
kẻ sĩ từ lâu lặn hết rồi
người còn / trơ trọi / bóng / đêm / thôi
ai không nín thở qua cầu chứ?
ngươi vác hoài cây thập giá đời
chí cả nong đầy những vỏ không
ngươi còn cật vấn chi dòng sông?
trái tim Quảng Đức xưa không nát
ngươi nát từ lâu: một tấm lòng
thì ngươi Tạ Tốn khi danh, lợi
xõa tóc khuya / rừng / gió / hú / khan
quạnh hiu: vết chem sâu ngang, dọc
ngựa hất bờm: chê hẹp cánh đồng
áo cơm chuyện nhỏ giờ sao nặng
đất nước đôi lần cũng nhẹ, tưng
ồ! ta hiểu chứ đời co, cụm
mọi điều hóa giá chỉ ngươi không
hảo hớn ư? – ngươi. Được mấy người
lỡ niềng quanh cổ nghiệp tay chơi
đến như giọt rượu không lưu vết
sống hết ga. Rồi: đi thảnh thơi
mai này thế kỷ sang trang khác
chẳng có ai thừa hơi hát ngao
bài ca người vác cây thập giá
dù, đất còn cho trái ngọt, mù.
Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà cũng vẫn là cuộc trường chinh chữ nghĩa, là chuỗi tâm tư của những người cảm thấy lạc lõng giữa đời sống của một xứ sở tiêu thụ, văng minh, và luôn hướng vọng về đời sống của quê nhà ở bên kia bờ một đại dương. Tâm cảm ấy, những người Việt tha hương ai mà không có (?) Chỉ khác nhau chăng ở cường độ nặng, nhẹ. Thi sĩ ở một giây phút nào đồng vọng, đã nói giùm, đã cất tiếng hộ chúng ta. Thơ bây giờ không phải là ảnh tượng của phù phiếm nữa mà chính là một phần đời sống thực, cảm nghĩ thực của con người. Và Du Tử Lê ở đằng sau thơ, là một trùng trùng biển khơi nhớ nhung, hồi tưởng của một đời đôi khi coi nhẹ chuyện vác thánh giá hộ người.