MỘ BÙI GIÁNG
TRẦN CÔNG NHUNG
Mộ Bùi Giáng và “bức tường lưu niệm”
Đối diện nghĩa trang chùa Quảng Bình, nơi an nghỉ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có mộ thi sĩ Bùi Giáng, chếch về phía tay phải vài chục mét. Mộ họ Bùi cũng nằm chung trong khu nhiều mộ khác. Nhưng "vóc dáng" mộ của nhà thơ khác xa mộ nhà soạn nhạc. Nếu mộ của Trịnh Công Sơn hòa vào thiên nhiên thì mộ Bùi Giáng lại nằm trong kiến trúc xây dựng.
Khuông viên mộ không lớn, giới hạn bời bờ xây thấp bằng hai lớp đá láng mặt. Mộ khối chữ nhật cao 50cm, đá ốp lát bên ngoài, trên nóc khoét lỗ tròn đường kính gần bằng bề ngang của mộ, trồng lơ thơ mấy cây hoa. Thường người ta chừa một khoảng trống dài để trồng cỏ hay đổ sỏi chứ không ai làm như vậy. Tôi liên tưởng đến ý niệm "trời tròn đất vuông", có phải càn khôn thu cả vào đây chăng.
Góc trái trên đầu mộ, có tượng bán thân của nhà thơ đặt trên bục xi măng cao, khắc mấy dòng:
Thi sĩ Bùi Giáng
Nguyên Quán: Vĩnh Trinh Duy Xuyên Quảng Nam,
Sinh năm Bính Dần 1962,
Tạ thế 17 - 8 - Mậu Dần (7 - 10 - 98) hưởng thọ 73.
Các anh chị em. Bà con Bùi Tộc Vĩnh Trinh và các thân hữu đồng lập mộ
Bức tượng rất nghệ thuật, thể hiện được khuôn mặt đặc biệt nghệ sĩ của Bùi Giáng. Phong tượng là một tấm đá mài màu chu có bài thơ nét chữ của Bùi Giáng:
Thần Tiên trên núi
Đùa với tuyết
Rỡn với vân
Một mình nhớ mãi
Gái trần gian xa
Sương buổi sớm
Nắng chiều tà
Trăm năm hồng lệ
Có là bao nhiêu.
Tôi thích màu da chu của tượng, màu sét rỉ rất phong trần, màu của gió mưa lang bạt, mặc dù suốt đời ông chưa hề có chuyến đi xa:
Hỏi rằng quê quán nơi đâu?
Thưa rằng tôi ở bấy lâu quê nhà.
Một bức tường cao, chạy hết chiều ngang khuôn viên mộ, kết bằng những tấm đúc mỏng như ván, theo dợn sóng chứ không phẳng mặt, gắn nhiều miếng marble mang những dòng lưu niệm của thân hữu, của khách thăm. Tôi cố đọc một vài mà không nom rõ, chữ nhỏ, không màu nên chẳng phân biệt được gì. Theo thiển ý, lối thiết kế có hơi lạ nhưng rườm rà, thô cứng, mọi thứ như để đóng khung, giam giữ hồn nhà thơ.
Cuộc đời Bùi Giáng, về cuối, rất ngang tàng, rất nhiều giai thoại. Từ những chuyện quanh mối tình của ông với kỳ nữ Kim Cương, đến những chuyện ông lang thang ngoài đường...nghe mà cười ra nước mắt.
Họa sĩ Hồ Thành Đức có lẽ là người biết rất nhiều về nhà thơ trong giai đoạn "hậu giải phóng". Anh kể:
Huy Cận, Thứ Trưởng bộ văn hóa, có bài thơ được Bùi Giáng sửa lại khi mang ra giảng dạy. Huy Cận biết được, phục tài sửa thơ của họ Bùi nên lúc vào miền Nam đã cho người tìm Bùi Giáng để thăm. Nhưng, sau 75 Bùi Giáng đã thành "Chủ Cái Bang", biết đâu mà tìm. đến nhờ họa sĩ Hồ Thành Đức, bởi sau 75 nơi ở của họa sĩ xem như chỗ vãng lai của nhiều nhân vật văn nghệ miền Bắc. Anh Đức chạy kiếm nhà thơ và khuyên ông: "Anh à, đến thăm ông Thứ Trưởng, anh phải ăn mặc cho đàng hoàng, về nhà em tắm rửa rồi lấy áo quần em thay". Bùi Giáng không nghe cứ mặc nguyên áo quần rách rưới hôi hám, ai đời quần xà lỏn mà thắt cà vạt, lại tòn ten trên người lon hũ linh tinh. Lúc đến dinh ông Thứ Trưởng, người bảo vệ không nhịn được cười và sau một hồi hạch hỏi anh ta bảo với nhà họa sĩ:
- Giờ này ông Thứ Trưởng đang ngủ, ông không thể vào được.
- Không phải tôi mà ông này.
- Ông này là ai?
- Ông này là Bùi Giáng, bạn ông Thứ Trưởng, ông Thứ Trưởng có dặn bất cứ lúc nào đến ông cũng tiếp. Nếu anh không cho ông này vào thì anh ráng chịu.
Anh bảo vệ đành phải đi báo, và Huy Cận ra tận cửa đón Bùi Giáng, nhưng thoạt nhìn đã phải quay đi vì không thể nhịn được cười. Huy Cận gọi nhà thơ là Tiên Sinh, chuyện vẫn thân mật. Cuối cùng ông hỏi Bùi Giáng:
- Tiên Sinh có cần giúp đỡ gì không xin cho biết?
Bùi Giáng nói như thật:
- Ông Thứ Trưởng giúp cho mấy chữ để tôi trình công an chớ họ gặp là đánh tôi bầm mình bầm mẫy.
Huy Cận viết cho Bùi Giáng mãnh giấy đại ý: Nhà thơ Bùi Giáng, bạn tôi, ông ta có tính hay đi thang lang, các anh em công lực thông cảm giúp đỡ. Mảnh giấy như lá bùa hộ mệnh, anh Đức bảo đưa photo để cất bản chính, nhưng Bùi Giáng không chịu. Mấy bữa sau, gặp lại, anh Đức hỏi:
- Sao công an còn khó dễ với anh không?
- Nó vẫn đánh tao hộc máu.
- Sao không trình giấy cho họ?
- Thì tao chưa kịp lấy ra nó đã đánh rồi.
Giấy cũng mất, anh Đức lại đèo nhà thơ đến thăm ông Thứ Trưởng lần nữa.
Người ta đồn rằng có hôm nhà thơ lang thang trên phố Lê Lợi, gặp một phụ nữ người Âu, ông thản nhiên bóp vú cô đầm, công an can thiệp, ông nói như không có gì: "Tôi chỉ muốn thử hai bầu vú Liên Xô có còn nuôi nổi Việt Nam không". Một lần khác trong chợ An Đông, ông giật một chiếc ghi đông xe đạp của bà bán dạo trên hè. Bà hàng đuổi theo bắt, ông trả lại và nói:
"Mất cả nước thì không la, mất cái ghi đông la oai oái"! Chuyện điên của Bùi Giáng có thể viết thành cuốn sách dày...
Thế nhưng một lần ngồi với anh em văn nghệ Sài Gòn (2005), nhà thơ Huy Tưởng lại bảo: "Bùi giáng điên mà khôn tổ mẹ, mỗi lần đến quán mình chưởi bới, bà xã mang ra mấy chục (nghìn), nói nhỏ: "Anh cầm đỡ đi uống cà phê", vậy là êm. Có lẽ khi tỉnh khi say. Thực ra, không một thiên tài nào mà tránh được miệng thế gian này. Nói chung, cuộc đời và cuộc sống như Bùi Giáng cũng hiếm lắm".
Hai nghệ sĩ Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng, lúc sống cũng là chỗ dao du thâm tình, trong nhạc của người này có thơ của người kia:
Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? chỉ một ấy là là chi
Bùi Giáng
Trịnh Công Sơn làm bài "Con Mắt Còn Lại", có một câu trong bài thơ "Mắt buồn" của Bùi Giáng: "Còn hai con mắt, khóc người một con".
"Em đi bỏ lại con đường
Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em
...Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người"
Ngày Bùi Giáng qua đời Trịnh Công Sơn có ghi vào sổ tang của Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm:
Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giáng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hóa ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô tận ứ ừ viễn vông
Trịnh Công Sơn - 1998
Cạnh mộ Bùi Giáng còn có mộ thi sĩ Tạ Ký, mộ đơn giản hơn, lại có tính cách "cổ kim hòa điệu". Cũng có bức tượng nhỏ, tấm bia lớn trên đầu mộ ghi:
Thi sĩ Tạ Ký
Sinh năm: 1928 (Mậu Thìn)
Quê Quán: Trung Phước, Quế Sơn, Quảng Nam.
Tạ thế: 19 - 3 - 1979 (22 - 2 năm Kỷ Mùi)
Tại chợ Mới An Giang
Cải táng: 05 - 4 - 2001 (12 - 3 Tân Tỵ)
Nghĩa trang Gò Dưa Thủ Đức Sài Gòn
Thân hữu trong, ngoài nước và cháu Đỗ Ngọc Anh lập mộ
Dưới cùng có hai câu thơ của người quá cố:
Thân cát bụi chẳng còn chi luyến tiếc
Nhưng lòng riêng khao khát chút tình thương.
Tạ Ký trước kia là nhà giáo, ông dạy Việt Văn, trường Đồng Khánh(?), viết sách giáo khoa, ông là nghệ sĩ hiền lành, ít khuấy động.
Nghĩa trang Gò Dưa hiện có 3 mộ phần của 3 người, sinh thời đã nỗi tiếng, lúc nằm xuống cũng hu hút lắm người thăm. Tuy nhiên nơi đặt mộ phần 3 vị không kề nhau, chung chạ với "thập loại chúng sinh". Vào nghĩa trang như vào nơi hỗn tạp, nhà mồ ngang dọc, lớn nhỏ ngược xuôi, biểu hiện sự tranh đua dành giật giàu nghèo nơi an nghỉ đời đời...Tôi thấy thua xa nghĩa trang Văn Điển ở Hà Nội.
Ra về tôi không còn cảm nghĩ lúc ban đầu. Nhưng rất nên thực hiện một nghĩa trang dành cho những người đã đóng góp nhiều công trình sáng tác, sáng tạo của mình cho đời. Qua những lời gửi gắm để lại chúng ta thấy, vị nào cũng coi thường chuyện ra đi:
"Thân cát bụi chẳng còn chi luyến tiếc"
"Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi"
"Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu".
Thế thì cũng không ai đòi hỏi chuyện một chỗ nằm khi từ bỏ cỏi trần; nhưng, đau xót, tiếc thương là từ người ở lại, nhưng người ít nhiều chịu ơn kẻ đã ra đi. Cho nên có làm gì chăng nữa thì cũng chẳng việc gì phải đắn đo, chỉ một lần và chỉ bấy nhiêu. Người chết không quyền lực không thể vòi vĩnh, không bớt xén, một nghĩa trang như thế là cho mọi người chứ không riêng ai. Người ngưỡng mộ viếng thăm dễ dàng tìm kiếm, nhà nghiên cứu tiện việc truy tầm. Một nghĩa trang có quí hoạch, có một mô hình rõ rệt, sẽ tạo được phong cách riêng, sống đã hiến dâng, chết cũng đáng có một nơi an nghỉ ý nghĩa, đấy không chỉ là sự đền đáp người đã khuất mà còn là niềm hãnh diện của người sống, một bài học cho các thế hệ mai sau. và giả dụ, "nhà nước" có kẻ một tấm bảng "Nghĩa Trang Văn Hóa", tôi nghĩ cũng còn dễ giải thích hơn là "Bưu Điện Văn Hóa, Đình Văn Hóa"!