KHÁCH VIẾNG CHÙA
DƯỚI TRĂNG ĐỌC TRÀ OÁN
NGUYỄN TRUNG DŨNG
Xe qua ngã tư Dầu Giây. Hai bên đường là rừng cao su, màu lá đỏ quạch như mai cua luộc. Cách Phan Thiết chừng hai thục cây số, khúc đường xe đang qua rất xấu, ổ gà lồi lõm, lòng đường nứt rạn, lở loét, xe nhồi xóc, động cơ khua lộc cộc, người tài xế phải giảm bớt tốc độ. Xế trưa, khách đáp xe mới tới được chân núi. Núi lớn, cao, có tên gọi là Trà Cú. Đường lên núi hiểm hóc. Lối mòn hẹp. Cây rừng gai góc chằng chịt. Lá cây phủ kín bưng. Nhìn lên, chẳng ai thấy bầu trời. Bốn bề cảnh vật im ắng. Chỉ nghe đâu đó tiếng đỗ quyên kêu buồn bã.Đứng trên đỉnh núi, khách thấy biển và rừng. Tiếng ì ầm của sóng biển nghe rõ. Sóng đó để lại nơi bờ mép những bọt trắng lay động, nom như một đàn chim hải âu vừa mới đáp xuống, cánh chưa kịp khép lại.Từ chân núi, tiếp với thảo nguyên cây cối lưa thưa, là một dãy rừng già, màu lá tối, càng tối hơn mỗi khi có những đụn mây từ biển đùn về. Một con đường xe chạy bò ngoằn ngoèo, lúc giấu mình khuất trong rừng cây, lúc hiện ra như một con rắn trườn, lượn. Và đoạn quốc lộ này, xe cộ ít qua lại, ngoại trừ xe đò chở khách buôn bán ra biển Phan Thiết, xe cần cẩu và vận tải kéo “rờ mọc” chuyên chở cây rừng. Tít sâu trong vùng hiểm hóc, nghe như rải rác có vài trại tù. Thường, chẳng mấy người thấy bóng họ, và đó chỉ là lời đồn.
Đêm Trà Cú sáng như ban ngày. Người khách vãng lai không ngủ được, lững thững tản bộ quanh sân chùa. Nơi trai phòng, nhà sư già cũng trằn trọc, thao thức, trỗi dậy ngồi uống trà. Khách đi ngoài hành lang, chợt nom thấy ánh đèn leo lét trong phòng, bèn dừng lại. Khách lén mắt, ngó vào nhìn trộm, đúng lúc sư trụ trì ngẩng lên nhác thấy:- “Nam Mô A Di Đà Phật. Khách quá cảnh viếng chùa, khuya rồi, sao không ngủ?”- “Bạch sư cụ,” người lạ nói, “bởi ánh trăng khuấy động giấc ngủ, bẩm khuya, nhưng không ngủ được.”- “Mời khách vào dùng chén trà. Cơ duyên mà hội ngộ đấy thôi.”- “Kính tạ thịnh tình quý báu. Xin vô phép.”Khách bước vô, ngồi xuống, từ tốn nâng ly. Nhà sư lặng lẽ nhìn khách rất bằng lòng.- “Nhiều đêm bần tăng thường ngồi độc ẩm dưới trăng. Ánh sáng của Đạo, ánh sáng của Trăng đồng lúc đẩy hồn ta ra khỏi lớp vỏ của Xác, bay bổng vào cõi minh nhiên, hư tĩnh của Trời và Đất. Cõi đó rộng rãi, bao la, mênh mông và bát ngát, trong sáng và tinh khiết vô cùng, không gì sánh được. Rơi vào tầng hư vô đó, hòa nhập vào khí chân như.”Sư trụ trì lại nâng ly, nhấp trà:- “Khách uống đi. Đây là cây trà chùa trồng, tuyệt không bán. Trà lấy giống ở Bảo Lộc, thứ quý, hương uống lạ, vị chát nhưng không đắng. Ấy là do sương rừng, khí núi, âm dương của mặt trăng mặt trời.”Khách đón ly trà, vừa uống vừa cảm tạ nhà sư:- “Bạch sư cụ.”, lát sau, khách hơi lưỡng lự hỏi, “Sớm qua, Phật tử vô tình nhác thấy trên bức vách nơi thư phòng có treo một bài thơ, bèn tò mò lén đọc. Chẳng hay xuất xứ của bài thơ đó ra sao? Ai là tác giả viết ra nó?”
- “Bài Trà Oán”. Sư nói. “Đó là một bài thơ hay. Từ xưa, đọc thơ, ta chỉ thấy các thi nhân ca tụng cái thú uống trà, ngắm trăng, vịnh phú, chứ chưa hề thấy ai nhàn ẩm mà ai oán cả. Kẻ viết bài này, bần tăng hội kiến một lần duy nhất. Khách chỉ là người vãng lai xa lạ, viếng chùa tá túc qua đêm rồi ngày hôm sau từ giã xuống núi. Người đàn ông đó dáng dấp nho nhã, đứng tuổi, trầm lặng và điềm đạm qua cung cách ăn nói, cử động. Đêm trăng, bần tăng và khách ngồi đối ẩm đàm luận đạo pháp. Khách tỏ ra am hiểu tận tường kinh sách nhà Phật, thấu suốt cái triết lý cốt lõi của Đạo, nhân đó mà chuyện trò ý hợp, tâm đắc. Và, đêm đó, khuya khoắt, trước khi cáo từ, khách tá túc đã trao tặng bần tăng bài Trà Oán. Chỉ tiếc có điều lúc đọc vài đoạn bần tăng thắc mắc chưa được giải ý, kiếm khách lạ, khách đã đi khuất trong làn mây núi.”
Sư ngừng nói để nhấp trà, rồi ngước lên vầng trăng như để nhớ:
- “Bài thơ rất dài, ta không thể nhớ hết được. Là kẻ tu hành, bấy lâu nay ta chỉ nhuần nhuyễn kinh nhà Phật, đọc những trang sách đại từ đại bi. Đêm đó, đọc những vần thơ ai oán, thống khổ của khách, ta cảm được cái cõi trần gian địa ngục của kiếp người. Ta đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc, hồn ta bứt rứt không yên, thảng thốt nơi chín tầng ngục tối. Khách hãy nghe:
Xưa ai bơi thuyền trên sông Hằng
Nghiêng lẳng rải chùm hoa nhiệt đới
Lềnh bềnh trôi màu tro nhục thân
Trong nồi trà chiều nay sóng sánh
Cũng nổi lên vài nụ hoa cam
Bạn bè ta ngồi quanh xúm xít
Chiều đã tàn chiều đi chưa hết
Đây bữa trà trong thành đá xanh
Ngồi uống trà dăm ông mặt nghệ
Râu hàm lởm chởm cỏ đồi tranh
Tóc buông lùm xùm tợ bờm ngựa
Uống trà trong thành đá xanh, thực tình ta không hiểu nơi đó là nơi nào. Và tại sao lại có một buổi uống trà kỳ lạ như thế. Uống một nơi chẳng mấy thoải mái mà kẻ ngồi dùng trà cũng không khoan khoái, ung dung. Như thế quả là khó hiểu.”Vẫn lặng thinh, khách chỉ ngồi chống cằm. Sư lại đọc tiếp:
Ngồi lại đây quanh nồi trà thơm
Như người xưa ngồi trong động đá
Đức Đạt Ma cùng với chúng tăng
Dâng trà hoa trước giờ thiền tọa
Ngồi lại đây quanh nồi trà thân
Hãy nhớ nhé cánh trà oan khổ
Bạn bè hái từ trên núi xanh
Cất giấu qua bao tầng địa ngục...
Khách đăm chiêu suy nghĩ, nét mặt hơi biến sắc. Cảm thấy ngừng lại để thắc mắc sẽ làm giảm sự thưởng thức, sư bèn say sưa đọc tiếp những đoạn dưới:
Hồn ta nay như cụm trà hoang
Lá sần sùi gội đầm mưa nắng
Hạt từ gieo oằn đỏ cành sâu
Lại trổ bông bên sườn thung lũng
Thấm giọng bằng một ngụm trà, sư đọc tiếp:
Chén trà chiều nay vàng hoàng hôn
Chén trà chiều nay cho đồng bạn
Đã cùng ta đi suốt sử xanh
Đã cùng ta bơi qua bỉ ngạn
Ai khôn thiêng chìm nổi khúc sông
Ai trăng khuya mênh mang đầu núi
Hãy về đây trong chén trà oan
Hơi trà đẫm hơi may xáo xác
Nghiêng ly trà mắt chiều xẩm đục
Hỏi bạn hiền vì sao ông buồn
Phải chăng ngày xa ngoài dặm cỏ
Hay mùi trà cứng vị nước nguồn
Tẩm trong nước một loài hoa ác
Hơi trà thấm hạt mưa lất phất...
Đêm đã gần sáng. Nhà sư hình như vẫn không hay:
Bữa trà muộn chiều hoang xây xẩm
Điểm điểm hạt mưa đầu xóm thôn
Ngày đã tàn cơn giông u uất
Chén trà chiều lòng ta mang mang
Lửa hoàng hôn huyễn sầu trong mắt
Nhìn ra chim bay chim bay
Ôi cửa biển giờ này đóng sớp
Sóng thần phù từng đợt lặng im
Óng ánh trong ly màu sen ngát
Hương trà còn như hơi thu tàn
U khốc đó giờ đây thấm ngọt
Bây giờ ta hiểu ra thiên thu
Bây giờ như bao giờ nhớ lại
Bữa uống trà trong động đá xanh
Nước trà ánh lên màu hổ phách
Dòng sông nào không là sông Hằng
Hãy thả những cánh hoa theo nước
Hãy rắc tro tàn từ nhục thân
Rồi cất tiếng cười lên ngọn sóng
Ôi hồn ta trôi theo sông Hằng
Hồn ta chiều nay là sông Hằng
Gà rừng bắt đầu gáy. Khách nghe tiếng thở dài của nhà sư.- “Ta chưa từng đọc bài thơ uống trà nào lạ lùng như thế. Uống trà trong động đá xanh, lòng oán thán, tâm thống khổ, hẳn người đó là một ẩn sĩ?”Nghe thế, khách mới lên tiếng:- “Bạch sư cụ, xin được thưa. Kẻ thiện nam này sở dĩ có thể hiểu được phần nào ý và lời bài thơ, có lẽ nhờ đã bị sống trong hoàn cảnh đó”.
- “ Tốt lắm. Tốt lắm.” Nhà sư hoan hỉ. “Xin giải bày cho nghe. Có thế, bần tăng mới vỡ những điều chưa rõ, mới thấu triệt nội dung của bài, hiểu được cái hay của nó.”Khách mạnh dạn kể:- “Pháo đánh xuống Bộ Tổng Tham Mưu, cứ điểm cuối cùng của quân đội miền Nam, mở đầu và kết thúc cuộc tổng công kích vào Sài Gòn. Cổng chính của dinh Độc Lập, tăng của quân “giải phóng” ủi sập. Kể từ đó, lá cờ đỏ màu máu có ngôi sao vàng năm cạnh bay trên nóc tháp, thì chế độ miền Nam chính thức cáo chung. Tướng, Tá, sĩ quan kẹt lại được lệnh tập trung đi cải tạo. Năm 76, thanh lọc phân loại, một số ở lại, một số chuyển trại ra Bắc.Năm quân đội Trung Quốc gây áp lực suốt vùng biên giới, đe dọa các tỉnh Lai Châu, Lào Kay, Tuyên Quang, Sơn La, Yên Bái, tù giam nhốt các trại thuộc các vùng đất đó được phân tán và di chuyển xuống lãnh thỗ miền Trung. Qua hai đợt chuyển trại, T6 ở Nghệ Tĩnh có trên ngàn tù nhân nhập khám.T6 thuộc huyện Thanh Chương. Nằm sâu trong một vùng hẻo lánh, đất đai khô cằn, làng bản vắng, dân cư thưa. Xa gần, trải dài và rộng là những ngọn đồi. Đồi thấp được trồng những cây trà hoặc bỏ hoang cho cỏ mọc. Ở mé sau trại, dưới tầm mắt thấy, dãy núi đá màu xám xịt. Bằng cốt mìn để phá đá, tiếng nổ long trời, mảnh miếng sắc cạnh văng tung tóe. Có khi mảnh miếng bay về tận nhà trại, rớt loang xoảng trên mái tôn. Đá núi sử dụng xây tường xung quanh nhà tù, vách các phòng giam, sàn nằm cho tội nhân thay giường ngủ. Đấy, bạch sư cụ, “bữa uống trà trong động đá xanh” nó là như vậy. Còn, ở tù, lấy đâu ra trà mà uống phong lưu như thế. Chả là trong số họ, có người làm ở đội trà. Những người được cử đi hái trà, lưng đeo gùi, chọn búp lá đúng tiêu chuẩn mà ngắt. Đủ số lượng, đội đem về trại nộp vào kho. Lấy cắp trà, nếu bị phát hiện, tù không tránh khỏi bị kỷ luật. Nhẹ thì kiểm điểm. Nặng cùm giam. Vậy mà, họ vẫn sấy được trà lấy cắp để cất giữ uống lâu ngày. Sấy lén như thế có kẻ đi báo cáo, tất bị trừng phạt.
Đấy là:
Ngồi lại đây quanh nồi trà thơm
Hãy nhớ nhé cánh trà oan khổ
Bạn bè hái từ trên núi xanh
Cất giấu qua bao tầng địa ngục
Bạch sư cụ. Xưa nay, kẻ uống trà thường thư thả mà ngồi thưởng thức ngụm trà, lặng lẽ ngắm vầng trăng, cùng bạn bè vịnh ngâm thơ phú, chứ mấy ai khổ ải, u khốc bên chén trà trong cái cảnh này.”Khách lặng đi không nói thêm nữa. Rồi bỗng cất giọng:
Bữa trà muộn chiều hoang xây xẩm
Điểm điểm hạt mưa đầu xóm thôn
Ngày đã tàn cơn giông u uất
Chén trà chiều lòng ta mang mang
Khách đứng dậy cáo biệt và nói nhà sư đi nghỉ. Xế chiều, khách mới thức dậy, hai mắt còn cay. Khách lững thững thả bộ ra mé sau chùa, đứng ở sườn núi ngó về biển.Ở đó, nhìn về phía trước, khách thấy đại dương, nhìn về bên trái, thấy thành phố Phan Thiết, nhìn về bên cánh phải là rừng và núi. Đỉnh núi, mây và sương mù che phủ. Cây cối mất dấu. Cảnh vật nhòa nhoẹt.Đường xe chạy, đi sâu vào miệt rừng, khách biết ngả đó sẽ tới trại Z.30C. Một trại nhốt tù mà trước đây khách bị giam giữ.
Nơi đó, óc não còn hằn vết toàn cảnh. Những rãnh nét khứa trên đá, sâu và đậm, ám ảnh khách như một cái bóng đuổi bắt mình dưới ánh trăng khuya.Trại Z.30C trước đây nằm sâu trong một vùng rừng núi. Đất gò mối được ban, cây cối bị chặt, nhà láng được cất dựng, biến nơi hoang vu cùng cốc làm nơi giam giữ tù.Chu vi vòng rào rộng. Phân giới trong và ngoài bằng một hàng kẽm gai. Bốn góc trại là chòi gác có lính vệ binh kèm súng quan sát.Nằm lọt trong khoảng đất của trại, nhà cất trên mười mấy căn. Mái tôn thiết.Tường vách ván gỗ xẻ. Từ cửa chính mỗi phòng giam, cuối là nhà cầu, giường sạp phân hai bên. Tầng lớp trên, tầng lớp dưới đủ để chia thước tấc ô nằm cho mấy chục người tù...Đêm, khi bóng tối quánh đặc, vùng trại tù biến mất. Đấy chính là cõi địa ngục nơi trần gian mà mỗi lần chợt nghĩ đến, khách lại thấy rùng mình.Bóng chiều đã tắt. Nắng thoi thóp. Giữa cảnh im lặng tịch mịch, tiếng chuông ngân nga nơi thiền viện nhắc khách về chùa.
Dáng núi xa dưới tầm mắt đã mờ nhạt, biến hình dưới lớp mây và sương mù. Nhìn lên cao, ngôi chùa cổ, kiến trúc xưa, mái phủ rêu, tường vách ố vết, lẫn khuất sau những cây cối già nua tuổi tác. Những cây đại thụ đó dễ có ngoài trăm năm, đứng đó nhẫn nại, ngạo nghễ với các thân gốc sù sì, vỏ da ghẻ sẹo, cành nhánh khô mốc.Từ những bậc thang lát gạch màu đỏ mai cua, lối lên cao vòng vèo, hẹp ngang, dẫn khách tới sườn núi đá bằng phẳng phía sau chùa. Ở đó, khách thấy tượng Phật Thích Ca nằm dài, đầu gối trên bàn tay mở rộng, mắt ngước lên khoảng trời cao và rộng.Dưới thấp sườn núi, có một bức tượng nữa nhỏ hơn. Căn cứ theo lời sư trụ trì, vị đó là Sư Tổ, người khai sinh và sáng lập ra chùa này. Khởi đầu, Ngài lên núi, xuất thế để tu luyện cốt nhục, hướng tâm dõi về Đạo. Ngài uống nước suối, ăn trái rừng, ngủ trên đá, dốc tâm tầm Đạo Núi, hồi đó, hoang dã. Thú rừng thường xuất hiện, nhưng sợ vía Ngài, gặp thì lảng tránh.Ngài khuất phục được tâm con cọp dữ sống lâu năm ở núi này. Mỗi lần, Ngài thiền định, cọp thường về nằm ngoài cửa hang coi chừng canh gác.
Và ngày trước khi vị Sư Tổ cảm thấy kiệt sức, Ngài tắm rửa chay tịnh, rồi vào ngồi trong động đá, tĩnh tâm đợi chết.
Viên tịch rồi, con cọp suốt ba ngày chỉ nằm phủ phục bên xác Ngài, không ăn không uống cho tới khi tắt thở. Về sau, có người lên núi, gặp xương cốt của vị Sư Tổ và ông Cọp ở trong hang, bèn xây cất chùa miếu, lăng tẩm để thờ cúng.
Khách trở về phòng, thu xếp hành trang. Đêm nay, khách sẽ rời chùa, vì hồi chiều, khách đã thấy con tàu neo ở ngoài khơi.