Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

 

KHÁCH VIẾNG CHÙA

DƯỚI TRĂNG ĐỌC TRÀ OÁN

 

NGUYỄN TRUNG DŨNG

 

 

Xe qua ngã tư Dầu Giây. Hai bên đường là rừng cao su, màu lá đỏ quạch như mai cua luộc. Cách Phan Thiết chừng hai thục cây số, khúc đường xe đang qua rất xấu, ổ gà lồi lõm, lòng đường nứt rạn, lở loét, xe nhồi xóc, động cơ khua lộc cộc, người tài xế phải giảm bớt tốc độ.  Xế trưa, khách đáp xe mới tới được chân núi. Núi lớn, cao, có tên gọi là Trà Cú. Đường lên núi hiểm hóc. Lối mòn hẹp. Cây rừng gai góc chằng chịt. Lá cây phủ kín bưng. Nhìn lên, chẳng ai thấy bầu trời. Bốn bề cảnh vật im ắng. Chỉ nghe đâu đó tiếng đỗ quyên kêu buồn bã.Đứng trên đỉnh núi, khách thấy biển và rừng. Tiếng ì ầm của sóng biển nghe rõ. Sóng đó để lại nơi bờ mép những bọt trắng lay động, nom như một đàn chim hải âu vừa mới đáp xuống, cánh chưa kịp khép lại.Từ chân núi, tiếp với thảo nguyên cây cối lưa thưa, là một dãy rừng già, màu lá tối, càng tối hơn mỗi khi có những đụn mây từ biển đùn về. Một con đường xe chạy bò ngoằn ngoèo, lúc giấu mình khuất trong rừng cây, lúc hiện ra như một con rắn trườn, lượn. Và đoạn quốc lộ này, xe cộ ít qua lại, ngoại trừ xe đò chở khách buôn bán ra biển Phan Thiết, xe cần cẩu và vận tải kéo “rờ mọc” chuyên chở cây rừng. Tít sâu trong vùng hiểm hóc, nghe như rải rác có vài trại tù. Thường, chẳng mấy người thấy bóng họ, và đó chỉ là lời đồn.

Đêm Trà Cú sáng như ban ngày. Người khách vãng lai không ngủ được, lững thững tản bộ quanh sân chùa. Nơi trai phòng, nhà sư già cũng trằn trọc, thao thức, trỗi dậy ngồi uống trà. Khách đi ngoài hành lang, chợt nom thấy ánh đèn leo lét trong phòng, bèn dừng lại. Khách lén mắt, ngó vào nhìn trộm, đúng lúc sư trụ trì ngẩng lên nhác thấy:- “Nam Mô A Di Đà Phật. Khách quá cảnh viếng chùa, khuya rồi, sao không ngủ?”- “Bạch sư cụ,” người lạ nói, “bởi ánh trăng khuấy động giấc ngủ, bẩm khuya, nhưng không ngủ được.”- “Mời khách vào dùng chén trà. Cơ duyên mà hội ngộ đấy thôi.”- “Kính tạ thịnh tình quý báu. Xin vô phép.”Khách bước vô, ngồi xuống, từ tốn nâng ly. Nhà sư lặng lẽ nhìn khách rất bằng lòng.- “Nhiều đêm bần tăng thường ngồi độc ẩm dưới trăng. Ánh sáng của Đạo, ánh sáng của Trăng đồng lúc đẩy hồn ta ra khỏi lớp vỏ của Xác, bay bổng vào cõi minh nhiên, hư tĩnh của Trời và Đất. Cõi đó rộng rãi, bao la, mênh mông và bát ngát, trong sáng và tinh khiết vô cùng, không gì sánh được. Rơi vào tầng hư vô đó, hòa nhập vào khí chân như.”Sư trụ trì lại nâng ly, nhấp trà:- “Khách uống đi. Đây là cây trà chùa trồng, tuyệt không bán. Trà lấy giống ở Bảo Lộc, thứ quý, hương uống lạ, vị chát nhưng không đắng. Ấy là do sương rừng, khí núi, âm dương của mặt trăng mặt trời.”Khách đón ly trà, vừa uống vừa cảm tạ nhà sư:- “Bạch sư cụ.”, lát sau, khách hơi lưỡng lự hỏi, “Sớm qua, Phật tử vô tình nhác thấy trên bức vách nơi thư phòng có treo một bài thơ, bèn tò mò lén đọc. Chẳng hay xuất xứ của bài thơ đó ra sao? Ai là tác giả viết ra nó?”

- “Bài Trà Oán”. Sư nói. “Đó là một bài thơ hay. Từ xưa, đọc thơ, ta chỉ thấy các thi nhân ca tụng cái thú uống trà, ngắm trăng, vịnh phú, chứ chưa hề thấy ai nhàn ẩm mà ai oán cả. Kẻ viết bài này, bần tăng hội kiến một lần duy nhất. Khách chỉ là người vãng lai xa lạ, viếng chùa tá túc qua đêm rồi ngày hôm sau từ giã xuống núi. Người đàn ông đó dáng dấp nho nhã, đứng tuổi, trầm lặng và điềm đạm qua cung cách ăn nói, cử động. Đêm trăng, bần tăng và khách ngồi đối ẩm đàm luận đạo pháp. Khách tỏ ra am hiểu tận tường kinh sách nhà Phật, thấu suốt cái triết lý cốt lõi của Đạo, nhân đó mà chuyện trò ý hợp, tâm đắc. Và, đêm đó, khuya khoắt, trước khi cáo từ, khách tá túc đã trao tặng bần tăng bài Trà Oán. Chỉ tiếc có điều lúc đọc vài đoạn bần tăng thắc mắc chưa được giải ý, kiếm khách lạ, khách đã đi khuất trong làn mây núi.”

Sư ngừng nói để nhấp trà, rồi ngước lên vầng trăng như để nhớ:

- “Bài thơ rất dài, ta không thể nhớ hết được. Là kẻ tu hành, bấy lâu nay ta chỉ nhuần nhuyễn kinh nhà Phật, đọc những trang sách đại từ đại bi. Đêm đó, đọc những vần thơ ai oán, thống khổ của khách, ta cảm được cái cõi trần gian địa ngục của kiếp người. Ta đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc, hồn ta bứt rứt không yên, thảng thốt nơi chín tầng ngục tối. Khách hãy nghe:

 

Xưa ai bơi thuyền trên sông Hằng

Nghiêng lẳng rải chùm hoa nhiệt đới

Lềnh bềnh trôi màu tro nhục thân

Trong nồi trà chiều nay sóng sánh

Cũng nổi lên vài nụ hoa cam

Bạn bè ta ngồi quanh xúm xít

Chiều đã tàn chiều đi chưa hết

Đây bữa trà trong thành đá xanh

Ngồi uống trà dăm ông mặt nghệ

Râu hàm lởm chởm cỏ đồi tranh

Tóc buông lùm xùm tợ bờm ngựa

 

Uống trà trong thành đá xanh, thực tình ta không hiểu nơi đó là nơi nào. Và tại sao lại có một buổi uống trà kỳ lạ như thế. Uống một nơi chẳng mấy thoải mái mà kẻ ngồi dùng trà cũng không khoan khoái, ung dung. Như thế quả là khó hiểu.”Vẫn lặng thinh, khách chỉ ngồi chống cằm. Sư lại đọc tiếp:

 

Ngồi lại đây quanh nồi trà thơm

Như người xưa ngồi trong động đá

Đức Đạt Ma cùng với chúng tăng

Dâng trà hoa trước giờ thiền tọa

Ngồi lại đây quanh nồi trà thân

Hãy nhớ nhé cánh trà oan khổ

Bạn bè hái từ trên núi xanh

Cất giấu qua bao tầng địa ngục...

 

Khách đăm chiêu suy nghĩ, nét mặt hơi biến sắc. Cảm thấy ngừng lại để thắc mắc sẽ làm giảm sự thưởng thức, sư bèn say sưa đọc tiếp những đoạn dưới:

 

Hồn ta nay như cụm trà hoang

Lá sần sùi gội đầm mưa nắng

Hạt từ gieo oằn đỏ cành sâu

Lại trổ bông bên sườn thung lũng

 

Thấm giọng bằng một ngụm trà, sư đọc tiếp:

 

Chén trà chiều nay vàng hoàng hôn

Chén trà chiều nay cho đồng bạn

Đã cùng ta đi suốt sử xanh

Đã cùng ta bơi qua bỉ ngạn

Ai khôn thiêng chìm nổi khúc sông

Ai trăng khuya mênh mang đầu núi

Hãy về đây trong chén trà oan

Hơi trà đẫm hơi may xáo xác

Nghiêng ly trà mắt chiều xẩm đục

Hỏi bạn hiền vì sao ông buồn

Phải chăng ngày xa ngoài dặm cỏ

Hay mùi trà cứng vị nước nguồn

Tẩm trong nước một loài hoa ác

Hơi trà thấm hạt mưa lất phất...

 

Đêm đã gần sáng. Nhà sư hình như vẫn không hay:

 

Bữa trà muộn chiều hoang xây xẩm

Điểm điểm hạt mưa đầu xóm thôn

Ngày đã tàn cơn giông u uất

Chén trà chiều lòng ta mang mang

Lửa hoàng hôn huyễn sầu trong mắt

Nhìn ra chim bay chim bay

Ôi cửa biển giờ này đóng sớp

Sóng thần phù từng đợt lặng im

Óng ánh trong ly màu sen ngát

Hương trà còn như hơi thu tàn

U khốc đó giờ đây thấm ngọt

Bây giờ ta hiểu ra thiên thu

Bây giờ như bao giờ nhớ lại

Bữa uống trà trong động đá xanh

Nước trà ánh lên màu hổ phách

Dòng sông nào không là sông Hằng

Hãy thả những cánh hoa theo nước

Hãy rắc tro tàn từ nhục thân

Rồi cất tiếng cười lên ngọn sóng

Ôi hồn ta trôi theo sông Hằng

Hồn ta chiều nay là sông Hằng

 

Gà rừng bắt đầu gáy. Khách nghe tiếng thở dài của nhà sư.- “Ta chưa từng đọc bài thơ uống trà nào lạ lùng như thế. Uống trà trong động đá xanh, lòng oán thán, tâm thống khổ, hẳn người đó là một ẩn sĩ?”Nghe thế, khách mới lên tiếng:- “Bạch sư cụ, xin được thưa. Kẻ thiện nam này sở dĩ có thể hiểu được phần nào ý và lời bài thơ, có lẽ nhờ đã bị sống trong hoàn cảnh đó”.

- “ Tốt lắm. Tốt lắm.” Nhà sư hoan hỉ. “Xin giải bày cho nghe. Có thế, bần tăng mới vỡ những điều chưa rõ, mới thấu triệt nội dung của bài, hiểu được cái hay của nó.”Khách mạnh dạn kể:- “Pháo đánh xuống Bộ Tổng Tham Mưu, cứ điểm cuối cùng của quân đội miền Nam, mở đầu và kết thúc cuộc tổng công kích vào Sài Gòn. Cổng chính của dinh Độc Lập, tăng của quân “giải phóng” ủi sập. Kể từ đó, lá cờ đỏ màu máu có ngôi sao vàng năm cạnh bay trên nóc tháp, thì chế độ miền Nam chính thức cáo chung. Tướng, Tá, sĩ quan kẹt lại được lệnh tập trung đi cải tạo. Năm 76, thanh lọc phân loại, một số ở lại, một số chuyển trại ra Bắc.Năm quân đội Trung Quốc gây áp lực suốt vùng biên giới, đe dọa các tỉnh Lai Châu, Lào Kay, Tuyên Quang, Sơn La, Yên Bái, tù giam nhốt các trại thuộc các vùng đất đó được phân tán và di chuyển xuống lãnh thỗ miền Trung. Qua hai đợt chuyển trại, T6 ở Nghệ Tĩnh có trên ngàn tù nhân nhập khám.T6 thuộc huyện Thanh Chương. Nằm sâu trong một vùng hẻo lánh, đất đai khô cằn, làng bản vắng, dân cư thưa. Xa gần, trải dài và rộng là những ngọn đồi. Đồi thấp được trồng những cây trà hoặc bỏ hoang cho cỏ mọc. Ở mé sau trại, dưới tầm mắt thấy, dãy núi đá màu xám xịt. Bằng cốt mìn để phá đá, tiếng nổ long trời, mảnh miếng sắc cạnh văng tung tóe. Có khi mảnh miếng bay về tận nhà trại, rớt loang xoảng trên mái tôn. Đá núi sử dụng xây tường xung quanh nhà tù, vách các phòng giam, sàn nằm cho tội nhân thay giường ngủ. Đấy, bạch sư cụ, “bữa uống trà trong động đá xanh” nó là như vậy. Còn, ở tù, lấy đâu ra trà mà uống phong lưu như thế. Chả là trong số họ, có người làm ở đội trà. Những người được cử đi hái trà, lưng đeo gùi, chọn búp lá đúng tiêu chuẩn mà ngắt. Đủ số lượng, đội đem về trại nộp vào kho. Lấy cắp trà, nếu bị phát hiện, tù không tránh khỏi bị kỷ luật. Nhẹ thì kiểm điểm. Nặng cùm giam. Vậy mà, họ vẫn sấy được trà lấy cắp để cất giữ uống lâu ngày. Sấy lén như thế có kẻ đi báo cáo, tất bị trừng phạt.

Đấy là:

 

Ngồi lại đây quanh nồi trà thơm

Hãy nhớ nhé cánh trà oan khổ

Bạn bè hái từ trên núi xanh

Cất giấu qua bao tầng địa ngục

 

Bạch sư cụ. Xưa nay, kẻ uống trà thường thư thả mà ngồi thưởng thức ngụm trà, lặng lẽ ngắm vầng trăng, cùng bạn bè vịnh ngâm thơ phú, chứ mấy ai khổ ải, u khốc bên chén trà trong cái cảnh này.”Khách lặng đi không nói thêm nữa. Rồi bỗng cất giọng:

 

Bữa trà muộn chiều hoang xây xẩm

Điểm điểm hạt mưa đầu xóm thôn

Ngày đã tàn cơn giông u uất

Chén trà chiều lòng ta mang mang

 

Khách đứng dậy cáo biệt và nói nhà sư đi nghỉ. Xế chiều, khách mới thức dậy, hai mắt còn cay. Khách lững thững thả bộ ra mé sau chùa, đứng ở sườn núi ngó về biển.Ở đó, nhìn về phía trước, khách thấy đại dương, nhìn về bên trái, thấy thành phố Phan Thiết, nhìn về bên cánh phải là rừng và núi. Đỉnh núi, mây và sương mù che phủ. Cây cối mất dấu. Cảnh vật nhòa nhoẹt.Đường xe chạy, đi sâu vào miệt rừng, khách biết ngả đó sẽ tới trại Z.30C. Một trại nhốt tù mà trước đây khách bị giam giữ.

Nơi đó, óc não còn hằn vết toàn cảnh. Những rãnh nét khứa trên đá, sâu và đậm, ám ảnh khách như một cái bóng đuổi bắt mình dưới ánh trăng khuya.Trại Z.30C trước đây nằm sâu trong một vùng rừng núi. Đất gò mối được ban, cây cối bị chặt, nhà láng được cất dựng, biến nơi hoang vu cùng cốc làm nơi giam giữ tù.Chu vi vòng rào rộng. Phân giới trong và ngoài bằng một hàng kẽm gai. Bốn góc trại là chòi gác có lính vệ binh kèm súng quan sát.Nằm lọt trong khoảng đất của trại, nhà cất trên mười mấy căn. Mái tôn thiết.Tường vách ván gỗ xẻ. Từ cửa chính mỗi phòng giam, cuối là nhà cầu, giường sạp phân hai bên. Tầng lớp trên, tầng lớp dưới đủ để chia thước tấc ô nằm cho mấy chục người tù...Đêm, khi bóng tối quánh đặc, vùng trại tù biến mất. Đấy chính là cõi địa ngục nơi trần gian mà mỗi lần chợt nghĩ đến, khách lại thấy rùng mình.Bóng chiều đã tắt. Nắng thoi thóp. Giữa cảnh im lặng tịch mịch, tiếng chuông ngân nga nơi thiền viện nhắc khách về chùa.

Dáng núi xa dưới tầm mắt đã mờ nhạt, biến hình dưới lớp mây và sương mù. Nhìn lên cao, ngôi chùa cổ, kiến trúc xưa, mái phủ rêu, tường vách ố vết, lẫn khuất sau những cây cối già nua tuổi tác. Những cây đại thụ đó dễ có ngoài trăm năm, đứng đó nhẫn nại, ngạo nghễ với các thân gốc sù sì, vỏ da ghẻ sẹo, cành nhánh khô mốc.Từ những bậc thang lát gạch màu đỏ mai cua, lối lên cao vòng vèo, hẹp ngang, dẫn khách tới sườn núi đá bằng phẳng phía sau chùa. Ở đó, khách thấy tượng Phật Thích Ca nằm dài, đầu gối trên bàn tay mở rộng, mắt ngước lên khoảng trời cao và rộng.Dưới thấp sườn núi, có một bức tượng nữa nhỏ hơn. Căn cứ theo lời sư trụ trì, vị đó là Sư Tổ, người khai sinh và sáng lập ra chùa này. Khởi đầu, Ngài lên núi, xuất thế để tu luyện cốt nhục, hướng tâm dõi về Đạo. Ngài uống nước suối, ăn trái rừng, ngủ trên đá, dốc tâm tầm Đạo Núi, hồi đó, hoang dã. Thú rừng thường xuất hiện, nhưng sợ vía Ngài, gặp thì lảng tránh.Ngài khuất phục được tâm con cọp dữ sống lâu năm ở núi này. Mỗi lần, Ngài thiền định, cọp thường về nằm ngoài cửa hang coi chừng canh gác.

Và ngày trước khi vị Sư Tổ cảm thấy kiệt sức, Ngài tắm rửa chay tịnh, rồi vào ngồi trong động đá, tĩnh tâm đợi chết.

Viên tịch rồi, con cọp suốt ba ngày chỉ nằm phủ phục bên xác Ngài, không ăn không uống cho tới khi tắt thở. Về sau, có người lên núi, gặp xương cốt của vị Sư Tổ và ông Cọp ở trong hang, bèn xây cất chùa miếu, lăng tẩm để thờ cúng.

Khách trở về phòng, thu xếp hành trang. Đêm nay, khách sẽ rời chùa, vì hồi chiều, khách đã thấy con tàu neo ở ngoài khơi.