HT THÍCH QUẢNG ĐỘ
VÀ CHỮ “TÂM” TRONG
BÀI THƠ “TỰ THUẬT”
DƯƠNG VIẾT ĐIỀN
Ai cũng biết rằng Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Giáo Hội Phât Giáo Việt Nam Thống Nhất hiện nay đang bị nhà cầm quyền trong nước quản thúc tại Thanh Minh Thiền Viện ở Sài gòn. Ngài đã bị Cộng sản bắt cầm tù rồi sau đó lại bị lưu đày một thời gian khá lâu. Trong thời gian ở tù và bị lưu đày, Ngài sáng tác rất nhiều bài thơ đủ thể lọai. Bài “Tự thuật” là bài thơ làm theo thể lục bát rất giản dị, nhưng nội dung lại mang đầy ý nghĩa, nhất là trong chốn lao tù.
Sau đây là bài thơ mang tựa đề “Tự thuật” của Ngài :
Tự thuật,
Thân ta trong chốn lao tù
Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ
Bao trùm khắp cõi hư vô
Lao tù đâu thể nhiễm ô tâm nầy
Mặc cho thế sự vần xoay
Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được nào
Ngọc thiêu mầu thắm biết bao
Sương càng phủ trắng tùng cao ngất trời
Trăng tròn khuyết biển đầy vơi
Mây bay gió thoảng cuộc đời sợ chi
( Tự thuật, trang 39, tuyển tập “Thơ tù”, H.T. Quảng Độ, 2006)
Đọc bài thơ trên ta thấy Ngài luôn luôn nhấn mạnh và chú trọng đến chữ Tâm .
Ai cũng biết rằng tâm là trái tim, là lòng người. Nếu chúng ta luôn luôn giữ vững con tim, giữ vững lòng người, giữ cho tâm bình khí tĩnh, không nao núng trước sự đổi thay của ngọai vật, luôn luôn hướng về chân, thiện, mỹ thì cho dù cuộc đời thường xuyên gặp bão táp mưa sa, cho dù cuộc đời luôn luôn gặp đắng cay tủi nhục cũng khó lay chuyển được lòng mình. Khi nói đến chốn lao tù, ai cũng biết rằng nơi ấy là địa ngục trần gian, là chỗ bị đọa đày thân xác, là nơi suốt đêm ngày chỉ có giận, buồn, lo, nghĩ, kinh , sợ, đói, khát.
Vì vậy nếu cứ ngồi nghĩ đến những yếu tố tiêu cực đó không chóng thì chầy, tâm trí ta sẽ bị hoảng lọan rồi tâm bất tại diên, và trước sau gì cũng sinh bệnh. Theo y lý đông phương, yếu tố thất tình (vui, giận, buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ) do sự rối loạn về tâm lý, tình cảm mà sinh ra. Trong chốn lao tù, yếu tố thất tình đến với chúng ta thường xuyên đêm cũng như ngày. Khi tình chí bị kích động, tinh thần bị sang chấn, âm dương, tạng phủ, kinh lạc, khí huyết sẽ mất thăng bằng rồi sinh ra bệnh nội thương Bởi vì giận quá sẽ hại gan, vui quá sẽ hại tim, suy nghĩ quá sẽ hại tỳ, lo quá sẽ hại phổi, sợ quá sẽ hại thận. Chính vì vậy, Ngài Thích Quảng Độ luôn luôn quyết giữ vững tâm mình trong sáng, loại bỏ tất cả những yếu tố thất tình thái quá luôn luôn ngày đêm xày xéo tâm hồn lẫn thể xác, và quyết không bao giờ để cho tâm bị vẫn đục. Nhờ thế Ngài đã giữ vững được ý chí sắt đá, bền gan nhẫn nại, cương quyết hướng con tim đến chân thiện mỹ ngõ hầu thoát khỏi vô minh .Và một khi đã thoát khỏi được vô minh thì sẽ trực ngộ để tiếp tục lãnh đạo Giáo hội và phục vụ cho đạo pháp.
Bởi vậy nếu mình không làm chủ được trái tim mình, không bảo vệ và giữ vững được lòng mình thì con người sẽ thay đổi rất nhanh qua từng sát na. Vì chữ tâm quan trọng như vậy nên Ngài Shantideva ở thế kỷ thứ 8 đã từng nói:
“Nếu buộc chặt con voi tâm bằng sợi dây chánh niệm.
Thì mọi sợ hãi tan biến, hạnh phúc toàn vẹn đến với ta.
Tất cả kẻ thù: cọp, sư tử, voi, gấu, rắn - những cảm xúc;
Tất cả ngục tối ở địa ngục ; ma quỷ, những sự khủng khiếp.
Tất cả những thứ ấy đều bị trói nhờ bạn đã làm chủ được tâm.
Hàng phục một tâm ấy, thì mọi sự đều được hàng phục.
Vì do tâm mà sinh ra mọi sợ hãi và vô lượng khổ đau.”
Vì thế lúc đang bị tù đày cũng như trong thời gian bị lưu đày, Ngài Thích Quảng Độ thường xuyên luyện tâm, luyện tập chánh niệm bằng những phương pháp thiền quán. Và nhờ tập trung tư tưởng như vậy ngài sẽ chứng đắc tuệ giác và không ai có thể lay chuyển được tim Ngài. Chúng ta nhớ lại thưở trước, mỗi lần ngồi thiền định, Ngài Sogyl Rinpoche thường đọc bài thơ của Ngài Nyoshul Khenpo và chính bài thơ này Ngài Sogyl luôn luôn lấy làm kim chỉ nam để hành thiền:
Hãy an trú tịch nhiên
Cái tâm mệt mỏi này
Bị nghiệp làm xơ xác
Với tư duy cuồng loạn
Như sóng vỗ không ngừng
Trong biển lớn sinh tử
Hãy an trú tịch nhiên.
Vì nhờ luyện tâm bằng những phương pháp thiền quán nên suốt mấy mươi năm ở trong lao tù cũng như trong thời gian bị lưu đày gặp toàn những chuyện dầu sôi lửa bỏng, Ngài vẫn giữ cho tâm Ngài luôn luôn được thanh tịnh, trong sáng, trí Ngài luôn luôn được tĩnh táo, thảnh thơi :
Những lúc trầm tư nếm vị thiền
Lâng lâng không bợn chút ưu duyên.
Ngục thất dầu sôi thành cam lộ
Lao tù lửa bỏng hóa hồng liên.
Gông cùm giam hãm ngoài tam giới
Xiềng xích buộc ràng với cửu thiên
Sống chết vui buồn tâm tự tại
Cành dương rửa sạch nghiệp oan khiên."
(Mùi Thiền, trang 79, tuyển tập "Thơ Tù", H.T. Quảng Độ, 2006)
Nhờ vậy, cho dù thường xuyên bị bão tố vây quanh, cho dù triền miên bị cuồng phong đe dọa, tâm Ngài vẫn luôn luôn vững như đồng :
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
( Ca dao Việt nam)
Đã thế trong thời gian bị lưu đày, bị cô lập một mình, những tưởng Ngài sẽ buồn bả vì đìu hiu cô quạnh, những tưởng Ngài đớn đau khắc khoải vì hoang vắng ưu sầu để rồi than vắn thở dài như những cung phi mỹ nữ dưới các triều đại phong kiến bị giam lỏng trong cung cấm hằng năm:
Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa
(Trong Cung Oán Ngâm Khúc)
Trái lại như ta đã thấy ở trên, không bao giờ Ngài để cho tâm mình bị lay chuyển vì u-buồn khắc khoải, vì lẻ bóng đơn côi khi bị triền miên cô lập giữa cuộc đời hành đạo . Ngài không bao giờ để cho tâm mình bị vẫn đục mà luôn luôn tâm Ngài sáng tựa pha lê.
Một thiền sư nào đó của Ấn độ đã từng nói: “Nếu tâm không bị gượng ép, thì nó tự nhiên đầy hỉ lạc, cũng như nước, khi không bị khuấy động thì tự nhiên trong suốt”.
Chúng ta thử lắng tai nghe Ngài Sogyal Rinpoche so sánh tâm thiền với chum nước bùn, sẽ biết được Ngài Thích Quảng Độ nhờ thiền trong lúc lưu đày nên tâm Ngài không ai có thể lay chuyển được và luôn luôn trong sáng như “vằng vặc trăng thu mặt hồ” .
Ngài Rinpoche nói: “Tôi thường so sánh tâm thiền với chum nước bùn: ta càng để yên đừng khuấy động nước lên, thì những phân tử bụi càng chìm xuống đáy, làm cho tính trong sáng tự nhiên của nước chiếu suốt đáy. Tính tự nhiên của tâm là nếu bạn để nó trong trạng thái đừng thay đổi, thì nó sẽ tìm thấy tính tự nhiên chân thực của nó, hỉ lạc và trong sáng.”
Thế nên Ngài Thích Quảng Độ đã không ngần ngại hạ bút viết mấy câu thơ lục bát như trong bài “Tự Thuật”:
Thân ta trong chốn lao tù
Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ
Bao trùm khắp cõi hư vô
Lao tù đâu dễ nhiễm ô tâm nầy.
Mặc cho thế sự vần xoay
Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được nào.
Thêm vào đó, Ngài đã xuất gia từ thưở nhỏ, đã dày công tu tập mấy chục năm trời dưới ánh đạo vàng của Phật giáo nên cho dù Ngài bị xô đẩy xuống dưới bùn lầy nước đọng, cho dù Ngài bị dồn vào chốn lao tù đầy khổ ải, bị đưa vào chốn lưu đày quá khắc nghiệt éo le, Ngài vẫn giữ được nụ cười thanh thản, Ngài vẫn luôn luôn hướng về chân thiện mỹ
nên con tim Ngài không bao giờ bị ô nhiễm như viên ngọc của Thiền sư Ngộ Ấn đời nhà Lý: “ Ngọc phần son thượng sắc thường nhuận” (Viên ngọc ở trên núi bị đốt màu sắc vẫn thắm tươi), như sen trong đầm, trong ao ở quê nhà:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhuỵ vàng
Nhuỵ vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao Việt nam)
Thật thế, như viên ngọc bị lửa thiêu đốt mà màu sắc vẫn không thay đổi, ở trong đầm biết bao nhiêu là bùn đen hổn tạp, vậy mà hoa sen vẫn tỏa ngát hương thơm. Nhờ vậy Ngài vẫn giữ được trái tim trong sáng đầy khoan dung độ lượng, để tiếp tục sống cuộc đời còn lại của mình, ngõ hầu lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vượt qua cơn bão táp phong ba hiện nay.
Ai cũng biết rằng “Trăm năm còn có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”, con người trước sau gì rồi cũng sẽ trở về với cát bụi mà thôi. Vì vậy mà trăng tròn rồi lại khuyết, hoa nở để rồi tàn, sum họp rồi ly tan, thương hải biến vi tang điền. Nhưng lúc còn sống ở trên trần gian này, đặc biệt là trong những năm tháng bị đoạ đày trong ngục tù, chúng ta phải sống như thế nào cho trọn tình trọn nghĩa, cho trọn đạo làm người. Phải biết đâu là chân lý, đâu là tà thuyết. Nếu là tà thuyết chúng ta phải giữ vững tấc lòng, quyết không để nó lay chuyển được tim ta. Nếu là chân lý, chúng ta nhất quyết bảo vệ đến cùng mà chẳng bao giờ sợ hải trước bạo tàn. Vì vậy Ngài mới kết thúc bài thơ “Tự thuật” với hai câu cuối như sau:
Trăng tròn khuyết biển đầy vơi
Mây bay gió thoảng cuộc đời sợ chi
Chính điều nầy nên dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào đi nữa, bất chấp cả thời gian lẫn không gian, chúng ta thấy Ngài luôn luôn tỏ thái độ “Thế à” của Đức Phật lúc Đức Phật còn bưng bình bát đi khất thực gặp một thiếu phụ tên là Cincã chạy theo vu oan cho Ngài là tác giả của đứa bé nằm trong bụng! Thái độ “Thế à” này được Ngài diễn tả qua bài thơ sau đây trong tập Thơ Tù:
" Đêm ngày tôi dạy cái thằng tôi
Đạo pháp suy vi: bởi lẽ trời
Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
Nhìn người đập tượng: nhắm mắt ngồi
Bắt bớ Tăng Ni: thây mẹ nó
Giam cầm Phật tử: mặc cha đời
Miễn được yên thân là khôn đấy
Can chi ậm oẹ để thiệt thòi"
Tóm lại, qua bài thơ “Tự thuật” ở trên, ta thấy tâm của Ngài Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ đúng là tâm của một vị Bồ Tát vậy. Đã là tâm của một vị bồ tát thì tất cả những thủ đoạn thần sầu quỷ khốc của Cộng sản đối với Ngài chỉ là bèo dạt hoa trôi, chỉ là mây bay gió thoảng mà thôi.
California, chiều cuối năm 2007
Dương viết Điền