MỘT NGÀY NGUYÊN TIÊU
CAO MỴ NHÂN
Có người quen từ "cố quận" ghé thăm xuân nhân dịp lễ nguyên tiên. Người quen hỏi tôi rằng: đã xuất hành chưa? Nếu thực sự "chưa", thì xin mời đi lễ rằm thắng giêng cho có chút đỉnh công phu.
Tôi mừng húm, vì rõ ra từ Tết tới nay, tôi vẫn "bám trụ" khuôn viên "sơ xác điêu tàn vì ai". Chẳng phải cái khuôn viên này nó có kho vàng của một trong những ông cố tổ Châu Á lênh đênh tới Cali, để hội nhập vào đoàn công nhân quốc tế, đến miền Bắc tiểu bàng này đào mỏ vàng, thâu tóm quặng, phân kim. Khiến tôi cứ luẩn quẩn ở nhà, gìn giữ cái mả tổ ấy, mà sự thực thì... Chả có ai chở đi đâu vậy thôi.
Để bảo kê cho ý tưởng vừa nêu, đùa là khuôn viên tôi ở biết đâu có hũ vàng của ai đó chôn dấu trong thời kỳ đào vàng thịnh khai, của ông Mark gốc Canada từ giữa thế kỷ thứ 19.
Mà người Việt đầu tiên tới Mỹ, là ông Trần Trọng Khiêm, người Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, đã giết viên Chánh tổng làm nhục vợ ông, nên ông phải bôn tẩu, qua nhiều giai đoạn mới tới được New Orleans bằng tên Tàu giả là Lê Kim, quý vị muốn tìm hiểu thì cứ xem sách của cụ Nguyễn Hiến Lê vừa bước vào cận đại.
Ông Trần Trọng Khiêm (1821-1866) hiện diện ở USA trong 12 năm, từ 1842-1854, không chỉ theo ông Mark đi đào vàng ở San Francisco, mà vì quá trình lưu vong trước đó, ông còn học được tiếng của mấy nơi đi qua, do đó nhà báo Lê Kim, tức ông Trần Trọng Khiêm, còn được tác giả Rene Lefebre viết trong cuốn La Ruee Vers L'or nhà xuất bản Dumas Lyon, 1937 giới thiệu cố tổ VN tới Mỹ như nêu trên.
Quả tôi cũng hơi dài dòng lạm dụng bài viết về lễ nguyên tiêu, thế thì tôi theo người quen cố quận, qua chùa Diệu Pháp trước rằm một ngày, lý do tất cả các nghi lễ quan hôn tang tế ở Hoa Kỳ thường mở vào thứ Bảy, Chủ Nhật, mà Chủ Nhật này là ngày 14 tháng giêng, nên không thể... cho qua được. Nhưng rồi lại ngần ngừ, nói rằng: thế có nhớ câu Mùng 5, 14, 23 không, ai mà xuất hành ngày 14 này chứ. Thôi tôi... chả đi đâu, rằm tháng giêng thì rằm, chứ tôi phải giữ gìn cho cả năm đấy.
Người quen bực mình vì cái tính đã "lão hóa" của tôi, bèn quày quả ra... xe, không phải ra đi về chân trời vô tận nào, kiểu truyện tình không đoạn kết.
Người quen nói: cái thói kiêng cữ của dân ta xa xưa, đã hết xài từ ngày lập quốc di tản, nếu lỡ con bà đi xin việc, Mỹ hẹn interview tuy là ngày tây nhưng nó nhằm vào 3 cái ngày húy kỵ sui sẻo bà nêu thì bỏ à, không đi thì thôi bà nội, đừng có "em chả" mệt quá.
Thì đi, chứ hôm đầu năm, cho tôi mớ quít làm chi, nói là hên, đứa con gái khó chịu, nó sợ việc làm khó quá, nói phải kiêng theo kiểu Mỹ đấy.
Là gì, ấm ớ thế, hết cữ ta lại kỵ tây sao? Quít thì sao? Tàu mê quít lắm đó, hỷ à, hảo à.
Hảo à, quít job chứ gì nữa, là tự cho thất nghiệp, hiểu chưa?
Thế mà qua 105 E, 605, 710, nhắm sơ 10 fwy. Chùa Diệu Pháp đã uy nghiêm trước mặt.
Vẫn màu vàng cúc vạn thọ VN, Bộ áo cà sa trên hình hài vị tiến sĩ "Văn hóa" kiêm tiến sĩ Phật học Ấn Độ, Hòa thượng Thích Viên Lý trụ trì 2 chùa Diệu Pháp ở Los Angeles và Điều Ngự ở Orange County đang giảng một bài đạo làm người giữa cha con, chồng vợ, anh chị em, họ hàng và tha nhân.
Tôi đứng trước 2 tấm bảng lớn gắn di ảnh. Quí vị chư tăng ni đã viên tịch. Vị nào cũng đắp y cà sa. Ngoại trừ quí ni sư tôi được hạnh ngộ như sư bà Như Thanh, sư cô Trí Hải, sư cô Ấn Chơn là người cũng một thời hoa lạc giữa rừng gươm cùng tôi ở Pleiku thủa tôi mới ra trường Xã Hội Caritas.
Ấn Chơn tu học và trở thành Thích nữ Ấn Chơn với trên 20 năm chỉ ở tại Diệu Pháp Tự ấy. Gương mặt sư cô tươi như hoa, tôi chạnh nhớ câu nói của Ấn Chơn ngày tôi mới tới Hoa Kỳ, tôi đến chùa Diệu Pháp lần đầu tiên khi chùa còn tọa lạc trên một ngọn đồi ở Monterey Park.
Gặp Phật Bà trên không khi chiếc tàu vượt biên mình sắp đắm, mình nói với mọi người là sắp được cứu rồi. Từ xa, hiện một chấm mờ, rồi chấm mờ đó hiện nguyên hình là chiếc tàu lớn, tất cả được vớt. Mình quyết chí đi tu.
Bất ngờ ánh mắt tôi chạm phải một dung nhan quen quen, trước nhất tôi không thấy vị đó mặc áo cà sa, rất mờ ảo, trên tấm bảng phía tay mặt, nơi dành để hình các chư tăng. Tôi ngó kỹ hàng chữ ghi dưới chân dung đó: giáo sư Phạm Công Thiện. À ra tiến sĩ triết gia họ Phạm, bạn đạo của Hòa Thương Thích Viên Lý vậy.
Thành ra cõi tu thật vô cùng hỉ xả. Vả chăng trước khi mãn phần, giáo sư Phạm Công Thiện cũng... chỉ ở chùa thầy Viên Lý thôi.
Tất nhiên đến chùa thì phải lạy Phật. Vô quỳ trước đạo tràng mà lòng cứ ngổn ngang trăm mối tơ vò, người quen cứ hết đứng lên lại quỳ xuống, sụp lạy một cách nghiêm chỉnh, sót sa.
Cả bài chú đại bi, tôi chỉ đọc được mấy chữ đúng nhịp là: yết đế, yết đế, ma ha yết đế... Còn không đọc đua thật nhanh với quý vị đạo hữu được, nên thôi đành chứ biết làm sao.
Muốn đọc kinh nhanh rất trôi chảy, phải năng đi tới các nhà thờ, nhà chùa, vv... một cách tin tưởng, thiện chí, chứ không phải dự lễ như một bổn phận.
Người quen tôi đang thả hồn theo bài chú, vậy mà bạn ta cũng thấy tôi loay hoay mò từng hàng kinh sách chữ lớn như hạt đậu xanh, chưa kịp đọc hàng trên, đạo tràng đã bỏ xa xuống mấy hàng dưới nhanh như chớp, thế là đành qua hẳn phần kinh sau chờ, khi nào đạo tràng đọc tới thì bắt kịp bài bản.
Người quen bèn đưa một ngón tay chỉ như dí chặt vào đoạn mọi người đang đọc, còn nói nhỏ: niệm đi chứ, lo ra hoài à.
Hơn một tiếng đồng hồ sau thì tất cả ra về, hay vô ăn chay hội. Người quen hỏi vô ăn chay, hay ra phố ăn mì muốn mặn muốn chay đều có cả.
Thôi thì ra phố cho bớt mùi tương chao. Xong ngày nguyên tiêu rồi, phải đợi sang năm mới lại có lễ rằm tháng giêng ạ.
Cao Mỵ Nhân