NHỮNG CHIẾC THUYỀN THƠ
Có những thuyền thơ cứ trôi lênh đênh trên một dòng sông, mà không thể chạy sát vào nhau được, dòng sông thì rộng đấy, nhưng thuyền thì chẳng thể đi sát vào nhau, bởi lẽ hình ảnh đẹp nhất, là con thuyền đơn lẻ, lặng lẽ trôi trên dòng sông hoa mộng đó, nhất là thuyền đang chở đầy thơ, chứ không phải thuyền kinh tế, thực dụng, bạn hàng "thương hồ" chuyển tải những cá khô, tôm lạnh, hay toàn bình, lu mắm, muối, tương cà...về bỏ mối ở đô thành, phố thị thân quen.
Những chiếc thuyền thơ đó chứa chan tình ý, ít nhất hơn một lần người lái thả mái chèo tìm về vô tận chữ nghĩa, không muốn đậu lại ở một bến bờ nào, bởi vì chủ thuyền thơ, chính là thi sĩ, và dòng sông dài dằng dặc, xa thăm thẳm lại là lời, là ý thơ mênh mông, bát ngát.
Mấy lâu nay, tôi cứ băn khoăn về dòng sông chữ nghĩa, những chủ thuyền bâng khuâng thả vần điệu trên mặt nước ngoài không gian để thoải mái tâm tư, tình cảm của mình, nhà thơ lãng đãng kiếm tìm.
Tôi là người làm thơ rất tôn thờ nguyên tắc, hay là mẫu mã của nó, thơ, cứ nghĩ, rồi viết, rồi sửa đi sửa lại, cho tới bao giờ...tự...vừa ý mới thôi.
Thế thì, giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm chuyên dạy Pháp Văn ngày xưa, lại đã từng đi làm tùy viên ngoại giao ở vài nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng Hòa thời đệ nhị (Cộng Hòa), nên sinh ngữ chính để giao thiệp là Anh Văn, do đó cả 2 ngôn ngữ Anh, Pháp, ông đều...ok quá trời.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm cũng như giáo sư Nguyễn Sỹ Tế (đã quá cố ít năm gần đây) bảo là:
- Cô Cao Mỵ Nhân bám sát vào luật lệ thơ, thì kỹ thuật không chê được, nhưng nghệ thuật đôi khi giới hạn tình cảm lãng mạn đấy.
- Dạ
Giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm thêm:
- Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền là bạn cùng đi dạy với tôi, trong Sư Phạm (dạy học) thì anh nguyên tắc lắm, nhưng thơ ca của Thanh Tâm Tuyền cởi mở cả ý lẫn lời cô Mỵ ạ.
Vì tôi lại là bạn của phu nhân giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm, nên khá thân khi cùng trao đổi về sách truyện, thơ phú vv...
Tôi vẫn dụt dè thưa:
- Lời thơ Thanh Tâm Tuyền thì mới quá rồi, nhưng ý thì có bài, em không hiểu gì cả, chắc hay lắm, nhưng khả năng triết học em kém.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm tiếp luôn:
- A mà có điều lạ lắm, Thanh Tâm Tuyền không bao giờ "chê" thơ ai cả.
Tôi chột dạ, không biết trong những lần đàm thoại ở gia đình giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm, có khi nào tôi múa...bút qua mắt...thầy, vì chính ông là một vị thầy của mấy bạn bè tôi ngày xưa, học Pháp Văn, có lẽ ở trường trung học Văn Lang, Sài Gòn.
Tôi bèn cười lái chuyện sang hướng khác, không phải thơ, để không bị vấp váp, mếch lòng "bậc thầy" về các nhận xét văn thơ chữ nghĩa ở đời.
Từ buổi đó, tôi chú ý đọc thơ bạn bè và "thiên hạ" nhiều hơn, đọc kỹ hơn để xem tác giả muốn chuyên chở tình ý gì, tôi gạt bớt một số tạp niệm về thơ tồn tại trong đầu óc mình, mỗi tác giả, nhà thơ, thi sĩ vv...như một chiếc thuyền chữ nghĩa riêng. Thuyền thơ này chất chứa...tuyệt phẩm này, và thuyền thơ kia, có thể là những sáng tác còn chút hạn chế, hay đã qua dòng thời gian không còn quyến rũ khách thơ, cũng có khi thuyền thơ chất ngất...tư duy, đồng thời thuyền thơ muốn thả nổi ngôn từ...cá biệt vv...chẳng hạn.
Phải thực sự sống với thế giới thơ hay là quý mến, ham chuộng thơ, mới có thể...sinh hoạt tận tình với thơ được.
Có một điều mà nhất định không thể chối bỏ được, là người Việt Nam nào cũng biết thơ, hiểu thơ...dân tộc, từ các cụ ông ngâm vịnh, đến các cụ bà ví von, quý anh, quý chị làm thơ gởi bạn...lòng, quý cậu, quý cô chép thơ tình của thi sĩ tên tuổi đông, tây, kim, cổ để tặng nhau nữa.
Mấy hôm nay có dịp...đàm thoại qua telephone với nhà thơ tên tuổi Du Tử Lê, tác giả cuốn sách thứ 60, như nhận định, quảng cáo nơi các cơ quan truyền thông, báo chí, nhân chuyện thi sĩ thăm hỏi một chút về nhà thơ nữ Tuệ Mai trong hội nhà thơ Quỳnh Dao mà tôi là thành viên cuối cùng của hội thơ này. Thi sĩ Du Tử Lê nói với tôi rất đồng ý trên nguyên tắc về cách "sống thơ" của người nữ thi sĩ đã quá cố vào chiều mùng một Tết âm lịch, năm 1982 ở Sài Gòn. Bởi lẽ người thi sĩ lãng du như Du Tử Lê, có thời gian hòa thơ (không phải xướng họa như thơ Đường Luật) mà tôi gọi là tình thơ hòa hợp.
Nói một cách khác, thì nam hay nữ thi sĩ nào cũng có những cuộc tình thơ đáng ngợi ca, ghi khắc vào tường, vách nơi lâu đài kỷ niệm. Xưa thơ thường chép rồi treo trên tường, vách phòng văn của thi, văn sĩ. Tôi thản nhiên nói:
- Những cuộc tình thơ theo sóng thời gian đã hoặc sẽ trôi vào dĩ vãng thôi, song le, những lúc đó, sống với thơ ca rất thật, bởi sóng thời gian, thì phải thay đổi chứ làm sao đứng lại được. Hay đúng ra, các nhà thơ thương yêu cuộc tình của mình, chứ không phải yêu người tình đâu.
- Ô, Cao Mỵ Nhân, chị "thi sĩ" quá vậy
- Tôi nghĩ làm thơ để thay cho lời giải bày hay biện hộ về cuộc tình thơ nào đó.
Để chứng minh cho nhận xét...chủ quan của tôi, tôi trích đoạn mở đầu bài thơ Nhan Sắc Em Buồn Lây Hư Không của Du Tử Lê:
Ở chỗ nhân gian không thể hiều
Nát đá, Tan vàng, Lá bỏ cây
Sớm mai đã sẵn nhìn bia mộ
Không ngọn nến nào cháy trên tay
(Du Tử Lê)
"không ngọn nến nào cháy trên tay" cũng có nghĩa là người thi sĩ không cần kiếm tìm những cuộc tình thơ. Dĩ vãng chính là bia bộ tình ái của vần điệu. Từ đó suy ra, người làm thơ rất mới, không cần phải ép buộc thơ mình vào khuôn khổ vần điệu hay "niêm luật " kiểu nguyên tắc nữa.
4 câu trong thuyền thơ Du Tử Lê nêu trên, đã lần thứ bao nhiêu chứng tỏ rằng thơ hay bởi cái lời nó hay, như lời ca nhạc Trịnh Công Sơn, còn ý thì tùy độc giả cảm nhận.
Ôi, những chiếc thuyền thơ cứ lênh đênh trôi trên sông dài, chẳng cần phải đậu lại ở cạnh nhau, bởi không gian đã sớm dành cho mỗi thuyền thơ những sự đứng, đi, ngủ, nghỉ, cần thiết. Nên đọc thơ với tấm chân tình thì...thơ mãi vô cùng diễm tuyệt.
Hawthrone 4-11-2014
Cao Mỵ Nhân