TRÊN MỘT DÒNG NƯỚC LỢ
Quý vị có bao giờ tìm đến một dòng nước lợ, để quan sát cuộc sống của những người và...vạn vật khác sinh hoạt thế nào không? Thường là ở cuối sông, ven biển, những giải đất quanh năm buồn phiền, hờ hững trước tương lai, hoặc là đợi chờ một sự đổi thay từ thiên địa hơn tự đáy lòng họ, khiến họ chấp nhận chịu đựng hơn phải...đấu tranh.
Bởi vì nói tới đấu tranh, là có nhiều yếu tố, mục đích kèm theo, còn hiểu là hoài bão, lý tưởng. Nhưng, như thế thì đi ngoài khuôn khổ, rời xa bài bản của tôi hôm nay, chỉ muốn kể lể với quí vị về tâm từ, tình cảm của những người lỡ sinh ra, hay tự chọn cho mình một miền đất lợ để sống.
Tại sao thế, họ đã chán những dòng nước ngọt, đơn điệu, và nhất là không gây cho họ một cảm giác mạnh đến tê đầu lưỡi vì cay, vị đắng, đồng thời họ cũng sợ đắng cay nếu cảm giác mạnh bị kềm hãm, bất như ý. Và, những người phía sát cửa biển, lại quá sợ triều nước mặn, ngập tràn giấc ngủ, giờ ăn...Họ đành tiến vào nước lợ.
Thế thì 2 giới người vốn từ nước ngọt, nước mặn nêu trên, họ có đồng cảm tư duy, đồng tình tri kỷ không? Thưa không đâu, một trăm lần không, họ đã mất chân đứng của họ ngay từ khi mặc nhiên hay muốn sống vùng đất lợ buồn chán, dở dang đến tuyệt cùng, tuyệt tận, mà cứ phải giả đò là đang...phấn khởi, hồ hởi lắm nếu phải trả lời bên này, hoặc đang thấy lại niềm tin chi đó, nếu phải trả lời bên kia.
Một buổi trưa mưa buồn ở miền nước lợ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, lời nhạc hiếu hòa, phản chiến...đã thấy như ai đó có lỗi với đất trời, đã làm cho nắng vàng tắt lịm cuối chân mây, để chỉ còn mưa hòa nước mắt, che luôn ngày tháng tương lai.
Và rồi nghe bài thơ...cuối cùng của thi sĩ thứ trưởng văn hóa Việt Nam đang Cộng Sản:
"Trên đỉnh đời vĩnh viễn".
Sau ngày 30-4-1975 ở đài truyền hình Sài Gòn chưa phải đổi tên, thi sĩ thứ trưởng Cù Huy Cận cười ung dung với hậu thế rằng giải đất hình chữ S của ông cha ta, đã vượt lên đỉnh đồi...vĩnh viễn, nghĩa là không còn gì mơ ước hơn, tổ quốc đã nối liền Nam, Bắc từ đấy 30-4-1975, người lữ hành chẳng cần nhìn khói hoàng hôn, chạnh nhớ nhà, mà nhà ai ở bất cứ nơi đâu, cũng là mái ấm của khách đường xa.
Nhị vị nhạc sĩ, thi nhân lừng danh ấy, từ khởi điểm, tò mò muốn biết, muốn thấy một phương trời viễn mộng, đã đẩy hồn ra trước mặt, thả tầm nhìn về chân trời mới, nhưng sự thực phương trời đó chỉ là viễn mộng, con đò chân lý cứ trôi trên dòng nước lợ, viển vông, hoài cảm.
Chẳng những chế độ Cộng Sản, mà cả những thể chế khác, văn minh hơn, đều không thích cái lý lịch mịt mờ, huyền ảo, hư huyễn, sau 30-4-1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chẳng sáng tác được bài nào sáng giá, nhạy cảm hơn nhạc Trịnh trước 1975.
Với quý vị thi sĩ tên tuổi lớn như Huy Cận, Xuân Diệu, sau 2-9-1945, cũng chẳng thấy bài thơ nào hay như Trường Giang, Ngậm Ngùi của Huy Cận, còn cụ Xuân Diệu thì có tập biên khảo khẳng định làm thơ không phải rung cảm, hứng khởi, mà: Công Việc Làm Thơ. Tập "Công Việc Làm Thơ" của nhà thơ Xuân Diệu trình bày công thức làm thơ giống như các tác giả thời nay viết:
Công Việc Phá Rừng
Công Việc Đào Giếng vv và vv...
Chẳng lẽ nhà thơ Xuân Diệu, căp bài trùng với nhà thơ Huy Cận, viết tựa là:
Kỹ Thuật Sáng Tác Thi Ca
Thì có vẻ Hán Hóa từ lâu đời rồi, nên Công Việc Làm Thơ mới đi vào quần chúng, mặc dù ngôn ngữ "phe ta, CSVN" vẫn xài mấy cái danh xưng, thuần Hán như: thủ trưởng, quản lý, anh hùng, dũng sĩ...
Quí vị sẽ bảo: Họ "mặn" từ thủa nào, mà nay "Chốn Bụi Hồng, tôi" nói nước lợ.
Thật ra cái miền nước lợ tôi cứ ba hoa, chính là...tư duy của các nhân vật đã và đang trôi nổi, dập dềnh Kia Kìa, tức là cái màu sắc da cam tùy theo mức độ mà lâu nay chúng ta hay bình phẩm về một nhân vật nào, kiểu lý luận..."Nhân bản":
-Ôi, Không chống Cộng, không có nghĩa là theo hay ưa Cộng Sản.
Vậy thì, đi tìm cái vùng đất...lỡ nước lợ mà ở, vì ở bên này biển, hay bên này sông, chỉ dành cho những người thích và yêu mến...bên này, còn bên kia gì đó xin mời về bến đó ở đi. Chỉ sợ về tới nơi, lại sống trên một vùng đất nước khác, chán chường và tuyệt vọng thêm.
Do đó, thật bất ngờ, tôi đứng trước một phòng tranh của một họa sĩ không ký tên nơi góc phải, phía dưới của các tác phẩm, theo thứ tự, họa sĩ vẽ: Sông Gianh, Sông Bến Hải, Sông Thạch Hãn, Sông Mỹ Chánh...và nơi dòng sông này vừa nêu, cũng có một nhân dáng ngậm ngùi, đợi chờ...
Tôi hỏi họa sĩ:
-Mấy người này, ở mấy thế hệ khác nhau, cụ già từ hơn 2 thế kỷ rưỡi trước, vị khác trẻ hơn 1 chút, thuộc thế hệ cha, anh tôi, còn 2 vị sau thì như mới gặp đâu đó. Họ định làm gì vậy họa sĩ:
Họa sĩ hất hàm:
-Bà biết gì không? Họ đang chờ vài người ở bên này biển, để cùng nhau chép...sử .
-Tại sao phải cùng chép sử, ai muốn chép thế nào thì tùy cách nhìn của họ chứ.
Họa sĩ lắc đầu:
-Đâu được, người chép sử phải đứng trên một dòng nước lợ, mà phải hiểu thật rõ lòng mình, rằng không ca tụng một triều nước nào, dẫu mặn hay ngọt.
Thêm một lúc trầm ngâm nữa, tôi thở ra cho nhẹ lòng mình.
-Họa sĩ ạ, sử gia Lê Văn Hưu lâu đời rồi, các sử gia thời cận đại cũng...quá cố rồi. Hiện đại, thì ai ở đâu biết đó, và phải biết một cách thành khẩn, công bằng cơ.
Tôi thấy, nên có một người hay một ban Chép Sử, trưởng thành, bám trụ và lão...tử ở thủ đô tị nạn Bolsa viết lại hành trình người Việt lưu vong từ thủa lập...quốc hải ngoại, để sau này con cháu biết được do đâu, vì ai ta sống trên phần đất này.
Hawthrone 29-4-2014