MẤT ĐÀ NẴNG
Những ngày cuối tháng 3 năm 1975 ở Đà Nẵng ban thống kê được thiết lập cấp tốc, gồm đại diện Tòa Thị Chính, đại diện ủy ban Bình Định phát triển và Khối chiến tranh chính trị Bộ Tư Lệnh QĐI/QK1, chủ yếu 2 phòng tâm lý chiến, xã hội, để kê khai nhân số cùng phát động chương trình thăm viếng, cứu trợ các trung tâm tị nạn Cộng Sản, từ 5 tỉnh miền Trung gồm Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, và Quảng Ngãi chạy về, con số đã ước khoảng 3 triệu người, thay vì lâu nay thành phố chỉ quanh 1 triệu, đã gọi là đông đúc lắm rồi.
Đại tá Lê Quang Thị, Tham Mưu Phó chiến tranh chính trị Quân Đoàn I/QK1 với nụ cười đôn hậu, nói với quân nhân các cấp thuộc khối CTCT rằng:
- Tôi tưởng đã thoát cái cảnh năm 1972, gia đình tôi từ Huế vô ở một nhà vòm của Mỹ để lại bên An Hải nay đồng bào các nơi dồn về nhiều quá suốt từ Non Nước tới Mỹ Khê dài tới tận Sơn Chà, rồi Phước Tường, qua Thanh Khê, tới sát Nam Ô, chỗ nào cũng dân tị nạn chưa kể các trường học, cơ sở trong thành phố, không ổn định và giải tỏa được, e bệnh dịch vì thiếu vệ sinh...
Trung tá Trịnh Thiên Khoa tiếp lời trong tay còn dở dang điếu thuốc lá cháy rụi:
Ông có biết là chỉ từ Huế vô Đà Nẵng thôi, mà người ta tưởng như...thoát chết đấy- Chiều qua trên họng đèo Hải Vân, người dồn nhau, như hóc cục xương gà, phải tự đẩy xe xuống vực, để nối đuôi nhau đi tìm đất sống, khổ quá!
Cách nói chuyện của trung tá Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến QĐI/QK1 của...tôi, cho tới bây giờ đã 40 năm qua, mà vẫn như âm vang đâu đó, vì ông không có ý khôi hài, song thường xử dụng câu cú rất khiến chúng tôi...cười bò ra.
Riêng phòng Xã Hội chúng tôi tặng ông biệt danh "Kissinger", bởi ý kiến của ông, trung tá Trịnh Thiên Khoa rất được đại tá trưởng khối CTCT, bất cứ ở giai đoạn nào đều quý nể.
Sau đó, chúng tôi phải gần như là phá sản kho tặng phẩm Xã Hội, để mang đi cứu trợ gia đình binh sĩ và cả dân chạy loạn ở các trại tị nạn nêu trên.
Nhưng chỉ như muối bỏ biển, tuy các gia đình tị nạn gồm đủ thành phần, ở la liệt, từ sân nhà thờ đến cửa chùa thậm chí gầm cầu thang đến trên cống rãnh, còn chỗ trống là còn dân tạm cư, chờ bình yên, trở lại quận huyện, thôn xã vv... như thế Cộng Sản phải biết rằng chẳng ai thích sống chung với họ, dù số dân tị nạn gốc gác tận làng xóm hẻo lánh, hay giữa phố phường chợ búa vui tươi, đèn điện sáng trưng.
Chúng tôi mang tâm trạng chờ đợi vô vọng mong muốn ai nấy được về lại nhà họ, dù tiếng súng vẫn mỗi lúc một mau hơn, dày hơn. Và, dù mong về mà vẫn phải chạy đi các tỉnh miền Trung thì cố vào được Đà Nẵng. đến Đà Nẵng, lại tất bật tìm phương tiện máy bay, tàu xe, vô Saigon. Có lẽ Saigon là điểm hẹn cuối cùng của tất cả mọi người đã và đang phiêu lưu giữa chiến tranh.
Không ai muốn đi tìm ai, vì ai cũng gặp nhau ở các trại tị nạn, không ai phản bội ai, trong hàng ngũ chúng ta, đại tộc Kaki của tôi, vì chẳng ai biết thật rõ lý do tại sao cuộc chiến cứ xãy ra một chiều ở các miền vẫn được coi là ổn định an vui lâu nay. Thế mà Quân Nhân Quân Lực VNCH đi trước kế tới dân, hoặc xen kẽ cùng đi quân dân đã không còn phân biệt bởi bộ quân phục tất cả chỉ còn chung cái mác VNCH. Rồi sau lớp người vừa nêu này, là một lũ phiến quân a tòng cùng Cộng Sản Bắc Việt chính quy, vừa đi vừa hát:
"Đồng chí ơi, người...giải phóng quân...mang theo tình yêu giai cấp trong tim". Tức là "họ" đã công khai phơi ra cái nhãn hiệu vô sản, nếu...ai mà không sợ bọn giặc Hồ chứ, đã sợ thì phải bỏ đi thôi.
Trong một danh sách dân tị nạn ở trại Lâm Tỳ Ni, dưới chân tượng đài Đức Phật đang xây cất dở dang sư bà Hải Triều Âm ký dưới bảng tổng kết, và người mang văn thư tới phòng xã hội QĐI/QK1 buổi đó tình cờ cho tôi hay, là Sư Bà tên Ni người Pháp, tôi thoát mừng rỡ vì trước thời gian loạn lạc này đúng 30 năm, sư bà là huynh trưởng Ni sinh hoạt Gia Đình Phật Tử ở chùa Lạc Viên Hải Phòng, tôi thuộc đoàn Oanh Vũ do 2 chị Ni, Tân hướng dẫn.
Biết vậy, nhưng như trên tôi đã trình bày là không ai có thì giờ đi tìm ai, vì thời gian đã quá eo hẹp, để lo cho cả việc nhà lẫn việc chung ngoài xã hội.
Đêm 27-3-1975, tôi lui tới, khốn khổ ở cầu tầu nơi biển Tiên Sha, đại tá Ngô Minh Châu chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy 1 Tiếp Vận phối hợp Bộ chỉ huy Vùng 1 Duyên Hải tập trận phòng thủ, doanh trại ú còi giới nghiêm, trong lúc chiếc tàu thủy lớn từ Phi Luật Tân neo bến, để cho 3000 nhân viên sở Mỹ và gia đình họ, di tản vô đô thành Saigon Chợ Lớn, rồi sẽ chạy tiếp qua Manila.
Thấy tôi bươn chải đưa phái đoàn 7 vị thuộc Cục Xã Hội trung ương cùng 2 phóng viên nhiếp ảnh của đài phát thanh Xám, cục Tâm Lý Chiến...chưa xong công tác, vì không thực thi công tác được bởi tình huống hỗn độn trên đèo Hải Vân hôm trước, đại tá Ngô Minh Châu bảo:
- Có các cháu theo không? Cô cho tất cả lên tàu đó đi, chẳng còn thì giờ nữa-
Bỗng đạn pháo từ hướng Tây bay tới, quả pháo đỏ lòe ánh lửa, rớt xuống cuối cầu tầu nổ đoàng, tất nhiên có người thiệt mạng. Chị Chuẩn Úy Tứ, phụ tá tôi, hét lên:
- Ngó kìa, có 1 cô mặc áo dài trắng, đang đánh "moóc" làm hiệu cho ổ pháo Việt Cộng, sao không ai bắt nó.
Cô ta đang đứng trên mui một xe Jeep đậu nơi cầu tàu, bị ngay người lính an ninh quân ta kéo xuống, anh hét lên như chị chuẩn úy Tứ của...tôi, rằng:
- Mày múa lên để ra hiệu cho chúng nó hở? Đồ khốn nạn.
Cô gái giả bộ điên khùng, chúng tôi cũng chẳng cần biết phần sau thế nào, bởi vì chẳng ai còn thì giờ, vâng, chẳng ai còn thì giờ nữa.
Chuyện đại loại như thế, ta với địch cài răng lược trong cảnh hỗn loạn, có lẽ nỗi chết ám ảnh suốt tháng ngày này-Cuối 3/1975.
Phải 2 tiếng đồng hồ sau, tàu Phi Luật Tân mới rời bờ biển Tiên Sha- thẳng hướng nam, chạy sát đất liền duyên hải miền Trung, Nam Việt Nam.
10.00 sáng 29-3-1975, hạm trưởng và thủy thủ đoàn thông báo "mất Đà Nẵng" sĩ quan và thủy thủ đứng nghiêm chào cờ Phi cùng cờ VNCH, nói lời "vĩnh biệt" - Chúng tôi, tất cả những người VN ở miền nam lặng cả người, rồi òa lên khóc.
Hawthrone 21-2-2014
CAO MỴ NHÂN