BÊN TRỜI LƯU VONG
Mùa xuân đã thực sự trở về ở quê hương, cũng như ở hải ngoại. Tôi nghĩ người dân Việt chung chung, phải vượt lên đâu thật cao, nhìn về trái đất, mới thông cảm và chia xẻ được với nhau về một mùa Xuân dân tộc, thủa vài trăm năm trước, chứ bây giờ, ngay đến tôi là một kẻ... ba phải nhất, vẫn tồn tại trong tâm tư tình cảm cái tính chất Xuân riêng lẻ cho mỗi người trước mỗi không gian được hạn chế bởi xã hội chung quanh nơi ta đang sống khi đón Xuân, cũng như khi ăn Tết Việt Nam.
Hôm nay, trước một mâm cỗ đầu năm Quý Tỵ ở quê người, tôi chợt nhớ rất xa rất xa vô Nam năm di cư 1954, đoạn rất xa mới đây, khi tôi rời Saigon qua Hoa Kỳ gọi là tái định cư.
Tái định cư có nghĩa là một lần nữa sống ổn định ở nơi nào khác, không phải nơi ta đã sống đầu tiên.
Và cũng có nghĩa là ta sống kiểu không cần, không nên, không giống kiểu cũ nữa.
Thế nhưng có một điều, lại cứ khắc khoải, mơ màng muốn nơi ở mới phải có chút gì giống ở quê hương xa vời, phức tạp và buồn thương của ta xưa, hình như đó là ngôn ngữ, là văn chương, là tất cả gọi gọn thành văn hóa dân tộc.
Do thế, mùa Xuân còn hớn hở, lạc quan bên cửa sổ, tôi đi tìm trong ký ức, và ngoài thực tế, những gì rất dân tộc thân quen của quí vị xưa cũng như nay, ôi chao, to chuyện quá, chỉ là những câu đối, những bài hành, mà người viết hầu như muốn gởi gấm vào, không khí trong sáng long lanh, lơ lửng nhưng dạt dào tình ý mà nửa muốn bày tỏ, nửa lại ẩn ức khép lại cái tư duy của mỗi người trước đám đông nửa quen, nửa lạ, nửa mất, nửa còn.
Nhà thơ Cung Diễm, còn có bút hiệu Tú Lắc dành cho những điệu vần dí dỏm, đã phóng 1 vế đối:
Tránh ra coi, để tớ coi, cá coi, thử coi.
(Tú Lắc)
Tức là ông ấy bảo ai đó tránh ra coi nào, để ông ấy coi con cá coi, thử coi nó làm sao.
Vì muốn dùng cái chữ để đối với cái chữ, nên nhà thơ Nguyễn Kinh Bắc ở miền đông Hoa Kỳ đối lại:
Ưa lý lắc, nên cô lắc, anh lắc, lâu lắc.
(Nguyễn Kinh Bắc)
Thực ra một câu đối hoàn chỉnh, phải ôm sát văn phạm luật lệ, danh từ với danh từ (riêng, chung) động từ với động từ (trực tiếp, gián tiếp) tĩnh từ với tĩnh từ vân vân và vân vân, thành đôi khi vế đối cứ vĩnh viên chẳng sao đối, đành chờ.
Thí dụ câu: Da Trắng Vỗ Bì Bạch của cụ cố nữ sĩ Đoàn Thị Điểm xưa, vẫn chưa có vế... trả lời sát phạt, dù có vị đối lại là Trời Xanh Màu Thiên Thanh, nhưng "màu" không phải động từ như "vỗ".
Những câu đối có xuất xứ, tên tuổi tác giả thường hạn chế ý tưởng và ngôn từ, còn những câu đối cứ để khuyết danh của dân gian, thì chao ôi, tuyệt tác:
Nam Kỳ khởi nghĩa quên Công Lý
Đồng Khởi lên đường mất Tự Do
là muốn diễn tả những đổi thay tên đường, tên phố ở Saigon sau 30-4-1975.
Đường Công Lý xưa, kéo dài từ bờ sông Bạch Đằng lên tận sân bay Tân Sơn Nhất, bạo quyền cộng sản đổi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, còn đường Tự Do trở thành Đồng Khởi như vậy chữ "lên đường" để đối với "khởi nghĩa", thực sự Nam Kỳ Khởi Nghĩa đã là danh từ riêng, có một tên đường 4 chữ như Nam Kỳ Khởi Nghĩa là Cách Mạng Tháng Tám thì lại hoàn toàn không xài được để đối.
Trong giai đoạn này, dân gian ở Saigon thủa tôi chưa qua Mỹ, đã quen và thích thú với một vế đối, mà cũng chưa thấy câu đối lại:
Chiến đấu bao năm
Võ tướng không còn Nguyên Giáp
(Cộng Sản) mà tướng Võ Nguyên Giáp không còn nguyên áo bào (áo giáp).
Tuy nhiên, không phải câu đối chỉ dành cho những sự việc: hóm hỉnh, dí dỏm, bài xích, đấu tranh, ta thán, vân vân và vv... câu đối còn giá trị ở sự việc trân trọng như quan, hôn, tang, tế. Trong giới văn chương thâm thúy, thi sĩ lão thành Giản Chi đã khắc một câu đối trước cửa mộ thi sĩ Hán học Đông Hồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, sau rời về Chiêu Anh Các ở Hà Tiên, khi nhà nước cộng sản Việt Nam bắt thân nhân các mộ chí phải giải tỏa, di dời sau 1975, nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội dời luôn câu đối để treo nơi mộ phần cải táng của cụ Đông Hồ dịp đổi thay đó:
Trần ai chớp mắt trăm năm mộng
Châu ngọc nghiêng lòng một ý thơ
(Giản Chi)
Quý vị cứ đọc từng chữ, từng nghĩa vế đối nêu trên, mới cảm thấy tình yêu văn chương, văn hóa Việt Nam thật sâu sa thâm thúy vô cùng, mà cũng là một chân lý sống thực tiễn để suy ngẫm, chỉ một chớp mắt thôi, đã trở thành trăm năm mộng rồi, còn gì mà đua chen, mâu thuẫn, thôi thì, hãy mở lòng ra đón nhận một ý thơ, chính là châu ngọc đấy.
Với những câu đối thì như vậy, tới những bài hành thì chao ôi, còn quý hiếm thế nào. Câu đối, nếu không đông đảo, thì cũng ít nhất một người hưởng ứng đối thoại.
Cái bài hành, hình như tác giả muốn khu trú vào cái nghĩa độc thoại riêng tư, song trái lại, các bài hành lại đáp ứng nhu cầu tinh thần độc giả nhiều hơn câu đối, vì các bài hành là sự độc diễn, không phải họa lại.
Nào là Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Hành phương nam của Nguyễn Bính, Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác, và tuyệt phẩm Tống Biệt Hành của Thâm Tâm.
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say...
(Thâm Tâm)
Sau 30-4-1975, có khoảng chục bài hành xen kẽ vào các giai đoạn thắng bại, chê khen, đi, ở, chết sống vv... và vv. Một bài hành của một thi sĩ, một chí sĩ HO khi rời quê hương qua Mỹ tái định cư, năm 2003 đã "tức khí" viết ra tuyệt phẩm:
Lưu Vong Hành
(Nguyễn Kinh Bắc)
Bài hành gồm 20 khổ thơ thất ngôn tứ tuyệt, tổng cộng 80 câu thơ tuyệt tác, tôi thiết nghĩ phải có dịp giới thiệu riêng Lưu Vong Hành mới đầy đủ ý nghĩa, hôm nay, xin đan cử một đoạn giữa lúc nắng Xuân còn chứa chan ngoài cửa, hứa hẹn một tương lai rực rỡ hơn cho tất cả những khách "kỷ nhân hồi"
... Một lũ túi cơm, phường giá áo
Như bầy ngan, ngỗng khoác lông công
Học làm con rơi lăng xăng múa
Đã nát càng thêm nát cộng đồng...
(Nguyễn Kinh Bắc)
Ngàn xưa, mùa Xuân đến, là lúc các đấng mày râu đi lập công danh, nay khách lưu vong có còn chi danh lợi, chỉ mong sao phẩm cách, nghĩa tình được gìn giữ sáng trong như câu thơ yên ngựa một thời.
Hawthorne 26-2-2013
Cao Mỵ Nhân