MÙA CỰU CẢM
Sau khi rời mái trường trung học rất danh tiếng ở Saigon, vì đó chỉ là một trường quy tụ toàn nữ sinh, hết 9/10 là nữ sinh thuộc các gia đình từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, các bạn cùng đệ, cùng lớp chúng tôi, người bước lên đại học, kẻ ra đi làm, và số ít hơn, lập gia đình thành những bà phu nhân, hay hiền thê bình thường, vui vẻ trong cuộc sống đổi thay dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa giàu sang, nhân di, nếu không khá giả lắm, thì cũng trung lưu, bình an cùng các tầng lớp xã hội, mà ngày nay ở quê hương xa vời, không thể có được.
Riêng tôi, thi vào 3 trường chuyên nghiệp: Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Phụ Tá Chuyên Môn Phòng Thí Nghiệm Viện Pasteur, và Nông Lâm Súc. Ba tôi nhìn ngắm những bộ hồ sơ sắp sửa được tôi đem đi nộp mà ái ngại. Thâm tâm ông muốn cho tôi, đứa con gái thứ 3, phải theo đường xuất giá, tức lập gia đình như 2 chị tôi đã thành gia thất, bởi lẽ bản tính tôi có vẻ phiêu bồng quá, không nên để thời gian trôi qua nhanh chóng lại chẳng gặp được người tâm đầu, ý hợp thì... buồn thôi.
Đó là thời gian cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, thế kỷ trước, tức ở cái thời nền đệ nhất Cộng Hòa đang còn rực rỡ ánh sáng miền Nam tươi vui, hoan ca, với hàng loạt các văn nghệ sĩ sáng tác, cũng như trình diễn, những tên tuổi dân gian lạc quan như Túy Hồng, Túy Phượng, Vân Hùng, về sau thêm các kép đẹp như La Thoại Tân, Ngọc Phu.
Những bản nhạc ngợi ca quê hương miền Nam, những cuốn phim Việt Nam còn ở thời kỳ phim chỉ 2 màu đen trắng đã lôi cuốn tôi trong suốt thời đang đi học.
Và tất nhiên, trong thời đại nêu trên, tôi vẫn làm Thơ đăng báo Phụ Nữ Diễn Đàn, Đời Mới, Văn Nghệ Học Sinh vv...
Thế rồi tôi mon men gởi thơ tới 2 tờ báo có số phát hành nhiều nhất, một nhật báo là Tự Do, và một tuần báo là Văn Nghệ Tự Do. Quý ông chủ trương lại là bạn của bà bác họ Cao nhà tôi, gồm nhà văn Mặc Thu, và nhà báo giáo sư Phạm Việt Tuyền.
Tôi cũng song song với các bạn học sinh thủa ấy, sống thoải mái, lạc quan dưới mái ấm gia đình ba má tôi. Nhưng vẫn thích tung mình ra ngoài xã hội, tham gia các đoàn thể, như là Hướng Đạo, Gia Đình Phật Tử, và cả Hội Con Đức Mẹ với tâm tư tình cảm tự nhiên, là ham vui tập thể, do đó bạn bè tôi thường đùa tôi là đệ tử của liên tôn "thích đủ thứ" kiểu sau này quý vị trung niên, cao niên hay rỡn nhau là bậc sa di Thích Nhiều Thứ, hoặc Linh Mục Chăn Duyên hay vì chăn Chiên vậy.
Do đó, sau khi chiến dịch Rừng Sát kết thúc, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đón đoàn quân thắng trận trở về, từ bờ sông Saigon, qua đường Cường Để, để tiến về Dinh Độc Lập, nơi có Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng quan khách. Dân chúng đứng 2 bên đại lộ Thống Nhất, Big Minh bấy giờ là đại tá Dương Văn Minh, dẫn đầu đoàn diễn hành, các nữ sinh được đề cử tới choàng vòng hoa lên cổ các chiến sĩ, tôi đã... sáng tác bài thơ:
Gặp Gỡ
... Anh là chiến binh
Tôi còn học sinh
Gặp nhau buổi ấy trời trong sáng
Tay dắt tay, đời có chúng mình...
(Cao Mỵ Nhân)
Tôi nghĩ nội dung cũng... thường thôi, tất nhiên còn có những đoạn sau, thêm vào cho cuộc gặp gỡ lý tưởng một chút.
Nhưng cũng từ bài thơ này, một thi sĩ chiến sĩ lại hồi âm, hoan ca tinh thần dân tộc, cám ơn đoàn nữ sinh đi choàng vòng hoa, ông ta ký tên là Người Ngoài Đời, bút hiệu Nguyễn Quan Hà định cư ở San Diego, nguyên trước 30-4-1975, trung tá Nguyễn Quan Hà (Nguyễn Quang Hạ) đó, là Chánh Võ Phòng Phủ Thủ Tướng.
Ai ở tuổi còn trẻ, chưa vào đời, nhìn tương lai cũng toàn màu sáng lạn, huy hoàng, cũng tự đặt trong đầu mình cái lý tưởng, hoài bão vv và vv... to lớn, thiêng liêng, nhất là được tôn thờ một lãnh tụ cao vời, như bạn tôi đã tôn thờ Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái vv... bây giờ ở An Khê, An Túc, Phú Phong, Đồ Bàn, nhân dân vẫn tôn kính Nguyễn Huệ, Quang Trung là đấng đại anh hùng... thì , thủa đó, tôi đã... cảm khái viết được bài thơ, chẳng do ai, do đâu xui khiến:
Người Về
Thì mười năm buồn khắc khổ
Thì ba năm đã ấm no
Thì ngàn năm sau vẫn nhớ
Người về dựng nước Tự Do
(Cao Mỵ Nhân 1957)
Bài thơ được đăng ngay ngắn, đẹp đẽ trên trang văn nghệ tờ tuần báo "Văn Nghệ Tự Do". Đọc lên là ai cũng biết ngay tôi ca tụng, ngưỡng mộ vị Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa, chí sĩ Ngô Đình Diệm.
Như trên tôi đã trình bày, qua bản tính phiêu lưu, không mạo hiểm của tôi, tôi không thể đóng khung nếp sống vui tươi lạc quan của mình nơi các khuôn viên trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Phụ Tá Chuyên Môn Phòng Thí Nghiệm, và Nông Lâm Súc, thời đó, trường Nông Lâm Súc còn tọa lạc tại tỉnh Lâm Đồng, mà tôi đã cấp tốc thi ngay vào trường Cán Sự Xã Hội Caritas của các sơ dòng Nữ Tử Bác Ái, số 38 đường Tú Xương Saigon để học một khóa Cán Sự Xã Hội đầu tiên, do Bộ Quốc Phòng đài thọ ngân khoản cho 10 khóa sinh trong 3 năm, chuẩn bị sẽ ra giữ chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội cấp Quân Đoàn và Quân Binh Chủng thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau này.
Ra trường, qua 1 năm tập sự ở các đơn vị xã hội, thuộc Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, tôi chính thức nhận chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội Sư Đoàn 9 Bộ Binh đồn trú tại Phú Thạnh, bên chân đèo Cù Mông, thuộc địa phận Qui Nhơn. Tôi tiếp tục vinh danh chế độ xã hội miền Nam với tấm lòng quý trọng, hân hoan, mà có thể quý vị hiếm thấy ở một thiếu nữ thủa bấy giờ. Chúng tôi khi đó mang cấp bậc chuẩn úy mới tinh, trong đội ngũ, phụ nữ phục vụ quân đội với cả thiện chí tuổi trẻ lạc quan.
Vị Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, thời gian đó, là Đại tá Bùi Dinh, được gọi "con cưng" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho tới cuối ngày 31-10-1963 vẫn chưa có tên trong danh sách Tướng lãnh làm cách mạng, đài phát thanh ngày đêm phát chương trình diễn tiến cuộc đảo chánh ở Saigon, chúng tôi ngồi ăn cơm trong câu lạc bộ sĩ quan ở một đơn vị ngoại vi thành phố Qui Nhơn, bỗng có tin từ máy radio phát ra, bảng danh sách các Đơn vị trưởng theo quân đội lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có tên:
... Đại tá Nguyễn Thanh Sằng chỉ huy trưởng Quân vụ thị trấn Qui Nhơn
Thế là thôi, chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác...
Rồi "Người Về" đã thực sự về thiên cổ cùng với bào đệ của ngài, ngày 2-11-1963, theo lịch công giáo, sau ngày các Thánh 1-11, thì 2-11 là ngày các Đảng, tức ngày của các vong hồn.
2 bài thơ "Gặp Gỡ" và "Người Về" của tôi đã thất lạc sau nhiều lần di chuyển, mỗi bài thuộc được mấy câu kể trên, nhưng chỉ mấy câu thôi, cũng đủ để nhắc lại đoạn đường thơ mộng, vui tươi của mình.
Từ cổ chí kim, từ đông qua tây, người ta thường nói những nhân vật làm lịch sử, phải đợi các đời sau đánh giá, chứ người dân đương thời so sánh hơn, thua, trái, phải, phần nhiều thiên kiến do cảm quan bè phái, nên khoảng 10 năm nay, ở hải ngoại đã có những cơ quan, đoàn thể hay bộ tộc liên hệ của nhị vị Tổng Thống Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, tổ chức các buổi tưởng niệm, lễ giỗ vv..., thương tiếc các ngài.
Như thế cũng hay, để chứng tỏ cho các quốc gia bạn, đồng bào Việt Nam đương thời biết, là dân tộc Việt Nam rất có tình, có nghĩa với nhị vị nguyên thủ Quốc Gia chân chính.
Riêng tôi thì lúc nào cũng nhớ Tổng Thống UNO, vì ngoài danh vị Tổng Thống, ông còn là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu trong đại tộc Kaki, rất gần gũi với quân nhân các cấp từ Bến Hải tới Cà Mau, mà tôi cũng có dịp được tới vườn hoa Dinh Độc Lập đứng chờ diện kiến trong đoàn chiến sĩ xuất sắc từ các đơn vị về dự lễ ngày Quân Lực 19-6 một năm sau Tết Mậu Thân.
"Người Về" danh xưng thủa nào đã dành cho những ai mang hoài bão về xây dựng đất nước, từ thế hệ này tới thế hệ khác, để dân tộc ta có cảm tưởng "Hồn thiêng sông núi" mỗi dịp "tống cựu nghênh tân" vừa gọn gàng vừa nói lên tất cả...
Hawthorne 3-1-2013
Cao Mỵ Nhân