MỘT NGÀY CUỐI THÁNG 3
CAO MỴ NHÂN
Rời căn cứ hải quân Tiên Sha vào nửa đêm 27 sắp qua ngày 28-3-1975, tôi được Đại tá Hoàng Mạnh Đáng, tham mưu trưởng Quân Đoàn I / Quân Khu 1 chỉ thị qua Thiếu tá Hoàng Xuân Đạm, chánh văn phòng Tham Mưu trưởng, rằng tôi có thể tìm phương tiện cho con cái về Saigon, rồi trở ra Đà Nẵng tiếp tục làm việc.
Tôi còn nhớ như in, buổi chiều ngày 27-3 ấy, khuôn mặt buồn sũng nước mắt Thiếu tá Hoàng Xuân Đạm nói với tôi:
- Các trưởng phòng, ban Bộ Tư Lệnh trên tàu ngoài khơi hết rồi, họ làm việc ngoài ấy cả tuần nay, hầu hết gia đình họ đi Saigon rồi, chỉ còn gia đình cô và gia đình tôi là kẹt lại, cô thu xếp đưa tụi nhỏ đi, rồi phải trở ra đây, còn nhiều công tác lắm.
Thật là:
Bốn bề bát ngát xa trông
Một màu hỗn loạn từ đông sang đoài...
Giờ phút đó, làm gì có phương tiện để cho con cái vào Saigon đây. Tôi về nhà, băn khoăn, lo lắng kinh khủng. Khổ nỗi cách đó 2 ngày, tức 25-3-1975, Tổng cục chiến tranh chính trị và Cục xã hội lại gởi ra một phái đoàn gồm 7 vị như sau:
- Trung tá Khuê
- Dược sĩ Dũng
- Một thiếu úy Tâm lý chiến
- Một thông tấn viên
- Một nhiếp ảnh viên
- Và 2 ông dân dự thuộc Đài Phát Thanh Xám (tức đài Mỹ, Việt đặc biệt).
Nhưng tới Đà Nẵng, 2 ông dân sự Đài này biến nhanh vào đám đông đang hỗn độn di tản, rồi sau cũng tự lo được phương tiện trở về Saigon. Chỉ có 5 vị nhà binh nêu trên là, tất nhiên theo sát công tác xã hội tiền phương của... tôi.
Tất cả trường học và cơ sở công cộng đều phải dành cho dân chúng từ Quảng Trị, Huế di tản vào tạm trú. Tất cả các khách sạn đều chật cứng các giới người tứ phương tới, nên phái đoàn 5 vị nhà binh đương nêu phải cư trú bất đắc dĩ ở nhà tôi, khiến lòng tôi cứ nóng như lửa đốt vì trăm thứ phải lo.
Đã thế, trung tá Khuê trưởng phái đoàn còn tươi cười giải thích cho tôi nghe:
- Cô chưa có kinh nghiệm về di tản chiến thuật gì cả. Này nhé, trung ương muốn dồn lực lượng quân ta vào 3 điểm chủ yếu, để có thể phản công, là Cảnh Dương (Huế), Chu Lai (Quang Ngãi) và chính Đà Nẵng này, cứ an tâm, đừng lo lắng nữa.
Vào đêm 27-3-1975 đó, những quả pháo to cối sầm của Việt Cộng bắt đầu nã các điểm ngoài vòng đai thành phố, mấy gia đình thuộc Phòng xã hội QĐ1/QK1 của... tôi phải chạy tới nhà ông trung sĩ Bảo tài xế kiêm thủ kho của Phòng Xã Hội ở Thanh Bồ, tức gần Trẹm, cửa sông Hàn ra biển Thanh Bình để tránh pháo kích, các vị trong phái đoàn trung tá Khuê vẫn ở lại nhà tôi.
12 giờ đêm 27-3-1975, nghe tiếng xe hơi đậu sát cửa nhà trung sĩ Bảo, giọng nói rất nhỏ của ông xã tôi:
- Có 2 chiếc tàu Phi Luật Tuân đậu ở Tiên Sha, Tổng lãnh sự Mỹ cho tất cả nhân viên Mỹ và gia đình di tản vô Saigon, rồi đi Phi Luật Tân, cho các con đi ngay.
Hồi đó ông xã tôi làm ở cơ quan DAO trong phi trường Đà Nẵng, anh có xe hơi riêng, nên khi chúng tôi vội vàng mở cửa nhà trung sĩ Bảo, để cùng... chạy loạn, chúng tôi đã thấy các vị trong phái đoàn ngồi trên xe của ông xã tôi. Thế là chúng tôi phải nhờ Bảo lái xe Phòng Xã Hội, chất gia đình ông Bảo, gia đình 2 cô Xã Hội đi luôn. Ngồi trên xe ông xã tôi, tôi không dám hỏi trung tá Khuê một câu gì nữa.
2 chiếc xe nhỏ mà chở 4 gia đình cùng phái đoàn tản cư, y như sau này quý vị đi vượt biên, tức là chật ních vậy.
Xe chạy trên đường Độc Lập, qua viện bảo tàng Chàm, chạy hết đường Trưng Nữ Vương, ngang trại Nguyễn Tri Phương, tức Bộ Tư Lệnh QĐI/QK1 của... tôi, rồi qua cầu Trình Minh Thế, để rẽ trái đi Tiên Sha, tôi cứ nhìn lại đằng sau, thấy còn những quân nhân đi quanh các dãy nhà ngói cao, điện còn thắp sáng các hành lang phòng ốc Bộ tư lệnh. Có đâu ngờ đó là lần chót tôi nhìn thấy nơi tôi làm việc gần chục năm, từ 1-11-1965 tới 27-3-1975.
Những gian truân dọc đường tản cư, nói thế cho nhẹ, vì danh xưng Di Tản có tính cách chiến thuật, mà tôi đem gia đình vô Saigon tị nạn, thì mắc cỡ quá đối với một quân nhân có chút gì cảm khái, xúc động, nên tôi băng qua đoạn trường này, cả những thương tâm tôi phải gặp hay chứng kiến... Để chỉ nói lên điều này tôi sắp phải bật khóc khi ban chỉ huy tàu Phi Luật Tân lên boong làm lễ chào thành phố Đà Nẵng thất thủ, buổi sáng 29-3-1275, tàu đang chạy ngang hải phận Quy Nhơn.
Sau khi tàu Phi Luật Tân rút neo, rời Tiên Sha đêm gần sáng ngày 28-3-1975, tàu bọc qua căn cứ hải quân Vùng 1 Duyên Hải rồi thẳng đường sóng biếc, chạy về hướng Nam, tàu luôn luôn chạy sát bờ thềm lục địa, tức là chúng tôi dù chen chúc như cá hộp, vẫn còn khoảng khoát không gian để nhìn vô làng mạc, cây cối, núi non, vẫn nhìn thấy được mặt trời mọc, mặt trời lặn, và một viền xanh màu lá phía tây thân tàu, là đất liền duyên hải miền Trung.
Bỗng chị chuẩn úy Trần Thị Tứ, phụ tá tôi ôm mặt khóc, tôi chưa định thần xem chuyện gì, thì chị nói:
- Ông sĩ quan hải quân Phi Luật Tân nói mất Đà Nẵng rồi, họ sắp làm lễ trên boong tàu, và kèn đồng sẽ thổi bài tiễn biệt Quân Khu I.
Ông xã chị Tứ, ông xã tôi, ông tài xế và một loạt các ông xã của các bà, các cô Phòng xã hội QĐI/QK1 chúng tôi, đều chưa rời Đã Nẵng.
Chỉ có quý vị nào, đã ở hoàn cảnh chúng tôi hôm đó, chồng đang rơi vào tình huống mất mát, biết bao giờ trở lại mái nhà xưa, thành phố cũ v.v... mới thấy được tâm trạng não nề, khốn khổ làm sao.
Hạm trưởng tàu Phi Luật Tân đứng trước máy vi âm, mặt giữ vẻ nghiêm, nói tiếng Anh giọng cất buồn rằng: "Chúng tôi chia sẻ nỗi buồn thương cùng quý vị đã sống lâu năm, đã sinh ra và lớn lên ở Đà Nẵng, thành phố rực rỡ, tươi đẹp của quý vị, nay Cộng Sản tiến chiếm đóng, rất buồn, rất buồn, thân ái...".
Tuy Đà Nẵng không phải quê hương tôi, nhưng tôi đã có chồng, sanh con ở thành phố đó, tôi lặng người một lúc, rồi nước mắt trào ra.
Hawthorn 4-3-2012
CAO MỴ NHÂN