NHỮNG NÀNG TÔ THỊ CHƯA HÓA ĐÁ
CAO MỴ NHÂN
Xưa nay câu nói: “Văn là người đã được xem như khuôn vàng thước ngọc cho những ai thích cầm bút. Tức là không viết thì thôi, viết thì phải cẩn thận lời ăn tiếng nói, mặc dầu có hư cấu đi nữa.
Những ngày xa xưa ở Sài Gòn, thưở còn học mấy năm đầu bậc trung học, nghe tin và được đọc thơ Cung Trầm Tưởng từ Pháp về Việt Nam, với hình ảnh cô nữ sinh Paris tóc vàng, sợi nhỏ, khiến anh sinh viên Việt Nam ngơ ngẩn, nhớ nhung suốt cả mùa hè, thì tôi cứ tưởng thi sĩ ấy Tây ghê lắm, chắc chẳng bao giờ mình chẳng đến làm quen, dù chỉ xin chữ ký trên tập thơ chẳng hạn, cho dẫu lúc đó, tôi đã làm thơ và đã đăng thơ trên nhiều tờ báo rồi.
Ngày tôi được diện kiến ông lần đầu, là hôm tôi tới thăm ông bà Hà Thượng Nhân vào dịp các sĩ quan QLVNCH trở về từ các trại tù cải tạo của Cộng Sản Việt Nam năm 1987, hoa sĩ Đằng Giao chở thi sĩ Cung Trầm Tưởng bằng Honda đến tư thất cụ Hà. Cung thi sĩ rất trẻ trung trong bộ trang phục rất sinh viên, quần jean xanh, áo thun đen, nhưng tóc đã muối tiêu, ít năm sau thì tóc trắng như mây trời mùa hạ, năm ấy nhà thơ mới 55 tuổi, còn cụ Hà đã 74.
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng vốn là trung tá không quân VNCH, nên từ vóc dáng đến ngôn từ, ông rất lịch lãm, hào hoa, khác hẳn nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, thua ông 4, 5 tuổi, mà nhân diện lúc nào cũng đăm chiêu, hờ hững, có lẽ tại tác giả sau cứ cho thơ la lên: “Tôi không còn cô độc”, nhưng sự thực thì thơ lập thể của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền tự nó chiếm ngụ một đỉnh trời hiu quạnh lâu rồi đấy ạ.
Trở lại không gian thoáng mát, vui vẻ của nhà thơ Cung Trầm Tưởng, xem mái tóc vàng sợi nhỏ của ai kia, xa xưa, có còn được ưu ái ở phương đông, đang có những tia nắng lửa xuyên thấu nếp nghĩ của hầu hết sĩ quan cải tạo về, ông nói rất bình thản và lạc quan;
- Về mấy ngày rồi, thăm ông (Hà Thượng Nhân) đây, sao nhìn ông... thế nào ấy.
- Còn cậu (Cung Trầm Tưởng) cứ như là thanh niên ấy, khỏe mạnh quá, ở trong ấy (là trong tù) không khổ à?
- Khổ chứ, nhưng về tới nhà là hết khổ ngay.
- Ai chẳng vậy- Này, tôi thuộc cái bài Tàu Đêm của Tô Thùy Yên, hay quá.
Tôi rất là ngạc nhiên, trước một thi sĩ lớn (Cung Trầm Tưởng), cụ Hà (Hà Thượng Nhân) cũng là một thi sĩ lớn nữa, lại khen thi sĩ lớn khác (Tô Thùy Yên), thì chỉ có cụ Hà hiền lành, chất phác mới... hay như vậy.
- Trong đó tôi viết được 2 tập, thi sĩ Cung Trầm Tưởng nói, Lời Viết Hai Tay và Bài Ca Níu Quan Tài.
Trung tá tâm lý chiến Phạm Xuân Ninh tức thi sĩ Hà Thượng Nhân, cứ như là dửng dưng trước sự nghiệp thơ trong tù của trung tá không quân Cung Thúc Cần, tức thi sĩ Cung Trầm Tưởng.
Nhưng sau cuộc đổi đời, và nhất là sau kiếp tù đầy dằng dặc hàng chục năm hơn chẳng ai muốn khó chịu với ai, chẳng ai thiết giận hờn ai, vì còn sống sót trở về với gia đình là vui vẻ lắm rồi, mọi chuyện khác sẽ tính sau, thí dụ phục quốc hay vượt biênv.v.. thì cái việc thơ ca dù ở trong tù hay ngoài tù, đã tạm xem như thứ yếu, chỉ sau này, khi tới được bến bờ tự do, hàng loạt hồi ký trong tù mới có dịp in ấn.
Năm 1994, để có thể giới thiệu một số tác phẩm của các thành viên đi dự Đại hội văn bút Thế giới ở Praha, Tiệp Khắc. Thi sĩ Viên Linh đã vận động phía văn hữu bên trời Tây, in tập Lời Viết Hai Tay cho thi sĩ Cung Trầm Tưởng.
Lời Viết Hai Tay vẽ hình ảnh của một người tù chính trị, bị trói cả hai tay, nhưng vẫn cố cầm bút viết, và phải dùng cả hai tay mới giữ được quản bút.
Song, vẫn chưa phải là điều tôi định nhắc tới hôm nay. Bởi vì nói như một thân hữu độc giả ở thật xa, tên Nguyễn Vô Cùng, lại là nhà thơ cổ điển, chuyên viết thơ Đường luật, hỏi rằng, sao bài viết của tôi về một chuyện ngày 30-4 ở mục Chốn Bụi Hồng báo SaiGon Times online, đã quá nghiêm khắc với một người vợ không tròn tiết hạnh với ông chồng vốn là Đại úy VNCH phải đi tù cải tạo, vâng, đó là trường hợp ngoại lệ, chứ có biết bao nhiêu ái thê của sĩ quan QLVNCH thủ tiết nuôi chồng, dạy con nên người, sao chị là tôi, chưa viết về họ.
Thì đã có nhà truyền thông Ngụy Vũ ở Nam Cali, sắp sửa phát hành cuốn truyện kể về những gian nan của đa số người vợ giới tù nhân chính trị CSVN nay mai.
Và, vẫn ở khung trời khoảng khoát của nhà thơ Cung Trầm Tưởng, tôi nhớ đến hình ảnh của những phụ nữ vừa khóc vừa níu quan tài khi chồng họ, những tù nhân chính trị, hay cha họ, anh em họ, con trai của các bà mẹ già nua, đã chết trong lao tù, chết vì đói khát, tủi nhục, chết sau lúc đã được trở về gặp lại gia đình, những người phụ nữ níu chặt nắp hòm, không chịu nổi cảnh sinh ly ngày chồng, cha, anh em họ ra đi tù cải tạo, nay càng thống khổ khi phải đau lòng vì tử biệt.
Bài Ca Níu Quan Tài của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, nay ông đã sắp 80, chẳng lẽ là tập thơ sau cùng ư, ông còn tinh tấn, hào sảng, còn viết lách nữa chứ, ông đã hơn một lần ca ngợi giới phụ nữa tiết hạnh khả phong nuôi chồng trong lao lý, dạy con giữa chợ đời, sáng danh các bậc phụ nhân hiền hậu nết na, mà hiền thê của thi sĩ là một bà đã từng hãnh diện khi nhắc đến phương vị “vợ một nhà thơ lớn”, buổi tối đến St, Paul Minnesota, ra mắt thơ năm 2002.
Buổi đó, nhà thơ Cung Trầm Tưởng “thi sĩ” hơn bao giờ hết, tóc trắng như mây trời mùa hạ, ông bảo rằng: - “Cô đã mời được khá đông anh em HO đang định cư ở thành phố này, họ dẫn theo cả các nàng Tô Thị thế kỷ 20”. Vâng, chính những hiền thê của quý vị sĩ quan VNCH đi tù cải tạo , đã được nhà thơ Cung Trầm Tưởng ví như những nàng Tô Thị vọng phu, nhưng họ may mắn hơn nàng Tô Thị huyền thoại đã hóa đá, còn họ, tái ngộ với quý ông “phu quân”, thật là đáng kính.
Thì ra, “Văn chưa hẳn là người”, mà những bài viết chỉ là phần nào suy nghĩ hoặc phản ảnh trung thực tình tiết truyện xảy ra chung quanh ta thôi.
Thi sĩ Cung Trầm Tưởng hào hoa, phong nhã, tác giả những lời thơ và bài thơ tương phản toàn bộ.
Tuổi trẻ, ông đã thích thú viết: “Anh nói bằng tiếng hôn” – tưởng là sự kiện trẻ mãi không già, song tới hồi cao niên, ông mang kính lão cho từng ý, từng lời, viết ra từng câu thật... trân trọng, để đời... thành có lẽ chưa ai thần phục, cảm mến, yêu thương những phu nhân của người tù cải tạo, đã khốn khổ vì chồng, vì con cho bằng nhà thơ tình văn minh, cấp tiến thi sĩ Cung Trầm Tưởng mà tôi xin mạn phép được tôn phong ông.
Hawthorne 5-5-2011
CAO MỴ NHÂN