HOA NỞ MƯỜI PHƯƠNG
CAO MỴ NHÂN
Nhà thơ Thái Tú Hạp mà đa số bạn thơ đã phong tặng ông danh nghĩa "Thi Sĩ Thiền", Thái Tú Hạp không đưa vào thơ những hình ảnh: chuông mõ, tam quan v.v... và trong thơ vẫn có danh xưng anh, em nhưng ý và lời thơ thì "an trú trong hiện tại" rõ ràng:
Mai ta lên đỉnh non cao
Xé mây may áo lụa đào cho em
(Thanh Tịnh Khúc - Thái Tú Hạp)
Đó là những câu thơ trong thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua của thi sĩ Thái Tú Hạp đã xuất bản cách đây gần 20 năm.
Cũng mang tâm tư tình cảm... vô thường, nhưng tôi lại níu kéo những hình ảnh: chùa chiền, chư tăng, đại chúng... vào tập thơ Đưa Người Tình Đi Tu, góp nhặt trong nhiều năm lai vãng các cửa Tam Quan, rồi được nhà xuất bản Tiếng Vang ở Sacramento xuất bản năm 2001.
Cả tập thơ nêu trên của tôi, tôi chỉ thích câu: "Áo người tu sĩ mầu sông mưa"
Mầu sông mưa là mầu xám lợt, mơ hồ như sắc áo tràng Phật tử.
Hình ảnh người tu sĩ trong toàn tập Đưa Người Tình Đi Tu không rõ rệt, chỉ thấp thoáng mầu xám của tà áo lam nào đó. Nên thủa thi sĩ Huyền Không, tức Hòa thượng Thích Mãn Giác còn tại thế, ngài đã điện thoại vào 2 buổi sớm mai, hỏi thăm:
- Có phải CMN viết về Thu Nhi không? Cô ấy mới xuống tóc tuần qua.
Sự việc nữ sĩ Thu Nhi dự định đi tu thì tôi biết lâu rồi, nhưng chưa thực sự hay tin chị mới xuất gia.
Thế rồi, tôi bắt gặp 2 tư tưởng khá hỗi tương của 2 bạn thơ Thái Tú Hạp và Thu Nhi, khiến tôi ngẩn ngơ trước một đạo tràng văn nghệ.
Thái Tú Hạp bảo rằng:
- CMN viết Chốn Bụi Hồng tích cực quen tay, nên càng cần tích lũy tư duy cho ngòi bút đấu tranh... êm đẹp, về những sự kiện rất đời mà chị đã trải qua, còn nhiều chất lính, năng nổ... nơi xứ người.
Khác với Thái Tú Hạp, nữ sĩ Thu Nhi lại rủ Cao Mỵ Nhân về tu ở thiền viện của chị đang xây cất nơi một làng toàn những khuôn viên tu hành, mà tôi tạm đặt là làng Hạnh Đức, gần Phương Lâm, trên đường Saigon - Đà Lạt.
- Mình, Thu Nhi, đã để dành được gần 10,000 USD, và đã nhờ người cất thiền viện cho mình, CMN có muốn phụ mình nghiên cứu kinh sách, thì cùng về.
Tôi ngạc nhiên đến sửng sốt, là vì tôi còn bao nhiêu bận rộn riêng tư, con cháu và các hệ lụy vân vân... chưa giải quyết xong.
Lần sau chị Thu Nhi lại phone:
- Nếu CMN không chịu về chùa mình tu, thì có cô khác đang xin theo.
Tôi vui vẻ đáp ngay:
- Chị ơi, em chưa phát nguyện được đâu, chị mời cô đó về với chị đi, em chưa đến được bến giác, buồn quá.
Nữ sĩ Thu Nhi, một trong bốn cây viết nữ luôn có thơ đăng ở tập san Phổ Thông của nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ trước 1975: Thu Nhi, Thanh Nhung, Hoàng Mai và Tôn Nữ Hỷ Khương.
Rồi nữ sĩ Thu Nhi đã về VN trụ trì nơi thiền viện nhỏ, do chị thực hiện ở làng tu hành nêu trên, không rõ được bao lâu, có lẽ khoảng chưa đầy 10 năm.
Cách đây 2 năm, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương từ Việt Nam qua thăm thân nhân, bạn bè ở Hoa Kỳ, tôi hỏi thăm nữ sĩ Thu Nhi trên hành trình tu đạo bên quê nhà, thì được chị Hỷ Khương trả lời:
- Chết rồi, CMN chưa biết tin gì à, chị Thu Nhi mất ở VN, còn mình không hay thiền viện của Thu Nhi thế nào.
Theo dòng cảm nghĩ, mà tôi thoáng nghe đâu đó khá lâu, tôi bèn hỏi tiếp:
- Thế chị Thân Thị Ngọc Quế?
- Cũng mất lâu rồi, sau ít năm chị về lập Chùa ở Saigon.
Như vậy 2 vị nữ sĩ Thu Nhi và Thân Thị Ngọc Quế đều đã viên tịch sau khi đạt nguyện tu hành buổi cuối đời.
Nữ sĩ Thân Thị Ngọc Quế, phu nhân của bác sĩ Dương Cẩm Chương ở Pháp nhiều năm, có thân tộc ở Mỹ, đã liên tiếp về VN xuất bản thơ.
Vào khoảng cuối thập niên 80 thế kỷ trước, nhà thơ Thân Thị Ngọc Quế đã nhờ giới văn nghệ địa phương giúp việc ấn hành 4 tập thơ trong cùng một thời điểm, trong đó có 2 tập hướng thiền là: Giọt Nắng Cành Sen và Mây Trắng Đường Về.
Khiến vài nhà thơ quốc nội tỏ ý buồn đời một người đã bầy tỏ khi chị muốn in tiếp tập thơ thứ 5:
- Thôi chị ạ, chị hãy tạm dừng việc in ấn đi, vì có nhiều người ở đây tủi thân là họ làm thơ cả đời, mà không có phương tiện xuất bản.
Thế là trên đường trở về quê hương yêu dấu xa xưa, không gian đầy những núi mây bạc, nữ sĩ Thân Thị Ngọc Quế ngậm ngùi nghe người cầm bút chân tình thổ lộ, chị đã không in tiếp thơ nữa.
Chị bước vào cõi tu hành, ngắm giọt nước đọng trên lá sen, chảy qua cành sen mà suy nghĩ kiếp sống của mỗi người như mỗi như mỗi hạt bụi bé nhỏ, nhưng lắm buồn phiền.
Cả 2 vị nữ sĩ theo dấu chân Thiện Tài, đã tìm về cõi đạo một cách an nhiên, tự tại.
Nữ sĩ Thân Thị Ngọc Quế rời quê hương từ những năm trước 1975. Xuất thân từ một đại học giàu sang, người anh ruột chị là bác sĩ Thân Trọng Lạc, chính là một trong 5 vị xây dựng Bolsa khi mảnh đất này còn heo hút gió sương, bùn lầy, tới lúc trở thành xứ sở nổi danh, trung tâm tị nạn của người Việt lưu vong.
Nữ sĩ Thu Nhi là một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, rời Saigon ra đi vượt biên tới San Francisco vào đầu thập niên 80 thế kỷ trước, sau hơn 20 năm từ tuổi trung niên bước qua cao niên, chị thích nghiên cứu kinh sách và tham gia công tác xã hội.
Ngoài niềm vui giữa đại chúng, chị không cảm thấy phải chen bước vượt lên cao, phải bay ra xa, mà tâm tư tình cảm đã lắng đọng trước cảnh ta bà thế giới.
Thu Nhi thường giúp đỡ bạn văn chương không vụ lợi, không lấn lướt, chị cảm thấy có chút gì an ủi, yêu thương trước đài sen rực rỡ ánh đạo vàng.
Những trang thơ từ mười phương vẫn luôn mở ra, và cũng vẫn thường khép lại, mỗi nhà thơ mặc nhiên giữa cõi vô thường, thật bình dị mà cũng... cao siêu, hòa đồng như Thái Tú Hạp, từ ái như Thu Nhi, và cảm thông như Thân Thị Ngọc Quế, tất cả đều sống giữa đại chúng, mang ý nghĩa riêng tư, nhưng lại vô cùng kết hợp, phải chăng tu là thế, và thiền là thế.
Hawthorne 20-02-2011
CAO MỴ NHÂN