NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN
QUA ĐỜI, THỌ 73 TUỔI
QUẬN CAM, CA 2-10 (NV) - Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tác giả tập thơ Hoa Địa Ngục, vừa qua đời lúc 7 giờ 17 phút sáng Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012, tại một bệnh viện ở thành phố Santa Ana, quận Cam, California, thọ 73 tuổi.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện vào bệnh viện vào sáng sớm ngày 26 Tháng Chín, 2012. Tại đây, bệnh viện điều trị chứng nhiễm trùng đường phổi nhưng ông vẫn thấy đau ở ngực. Một số xét nghiệm cả về tim mạch, chụp phim và lấy mẫu phổi (biopsy) truy tìm ung thư cũng đã được thực hiện.
Tuy nhiên, cho đến sáng ngày Thứ Hai, 1 Tháng Mười 2012 thì bệnh trở nặng. Mười giờ sáng Thứ Hai, Linh Mục Cao Phương Kỷ đã làm các nghi thức cần thiết để ông trở thành một tín đồ Công Giáo theo ước nguyện trước sự chứng kiến của ông bà Bác Sĩ Trần Văn Cảo, Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Trang, bà Lâm Thiên Hương, nhà văn Trần Phong Vũ.
Nhà văn Trần Phong Vũ, người kề cận, chăm sóc nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trong những ngày ở bệnh viện, đã vuốt mắt cho nhà thơ sau khi ông qua đời.
Người anh của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đáp máy bay từ Virginia tới Quận Cam sáng nay cũng không kịp gặp mặt em trước khi mất.
Người tù 27 năm
Ông Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 tại Hà Nội. Ông có một người anh là sĩ quan cao cấp VNCH đang ở sống ở tiểu bang Virginia, hai người chị ở Việt Nam.
Ông bị tù cộng sản tổng cộng 27 năm qua nhiều nhà tù miền Bắc, đặc biệt là nhà tù nổi tiếng Cổng Trời. Lần ra khỏi tù sau cùng của ông là ngày 28 Tháng Mười 1991.
Khi ông chạy vào Tòa Đại Sứ Anh Quốc ở Hà Nội đưa tập thơ và xin tị nạn chính trị, viên chức tòa đại sứ chỉ nhận tập thơ để chuyển ra ngoại quốc và cho biết họ không giúp ông tỵ nạn chính trị được. Bước ra khỏi trụ sở Tòa Đại Sứ Anh thì ông bị công an CSVN bắt giữ liền.
Nhờ sự can thiệp đặc biệt của nhiều nhân vật quốc tế, ông đã được chế độ Hà Nội thả cho đi Mỹ định cư Tháng Giêng 1995.
Ông đã đem kinh nghiệm về chế độ Cộng Sản, kinh nghiệm tù đày trình bày với các cộng đồng người Việt khắp nơi từ Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Úc Châu.
Tập thơ Hoa Địa Ngục đã được dịch ra Anh, Pháp, Đức và Hòa Lan ngữ.
Sau khi đến Mỹ, năm 2001 ông cho xuất bản tập truyện Hỏa Lò. Tập truyện Hai Chuyện Tù được ông xuất bản năm 2008.
Ông Nguyễn Chí Thiện từng gặp cha Chính Vinh, cha Nguyễn Văn Lý trong nhà tù CSVN.
Nhân cách và cái chết của cha Chính Vinh tại nhà tù Cổng Trời (tỉnh Hà Giang) được nhiều người viết hồi ký kể lại trong đó có ông Kiều Duy Vĩnh. Ông Vĩnh là một trong rất ít người thoát chết trở về sau nhiều năm bị giam ở trại Cổng Trời, mới qua đời hồi Tháng Bảy vừa qua và cũng đã chịu các phép bí tích để trở thành tín đồ Công Giáo.
Những kỷ niệm cũng như nhân cách của cha Chính Vinh, Linh Mục Lý đã gây ấn tượng sâu sắc thúc đẩy nhà thơ Nguyễn Chí Thiện chọn đức tin Công Giáo và lấy tên thánh là Thomas More.
Tác giả Hoa Địa Ngục
Vào năm 1980, người ta thấy xuất hiện ở hải ngoại một tập thơ không có tên tác giả, xuất bản bởi “Ủy Ban Tranh Đấu cho Tù Nhân Chính Trị tại Việt Nam”. Tập thơ mang tựa đề “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực” mà tác giả là “Ngục sĩ” hay Khuyết Danh. Ít tuần lễ sau, tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong đưa ra một ấn bản cùng một nội dung nhưng với tựa đề “Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam”.
Tựa đề tập thơ Hoa Địa Ngục có từ khi Yale Center for International & Area Studies ấn hành bản Anh ngữ Flowers From Hell do ông Huỳnh Sanh Thông dịch. Sau người ta mới biết tác giả tập thơ là Nguyễn Chí Thiện.
Những bài thơ của ông trong tập Hoa Địa Ngục gây xúc động sâu xa trong tâm thức người đọc về cái đói, sự đày đọa ác độc, sự gian ác của chế độ Cộng Sản đối với con người.
Tập thơ thoát ra khỏi Việt Nam khi nhà thơ lén mang tới Tòa Đại Sứ Anh tại Hà Nội và được Giáo Sư Patrick J. Honey thuộc đại học London sang Việt Nam Tháng Bảy năm 1979 và mang về. Kèm trong tập thơ 400 trang viết tay này là lá thư mở đầu với lời ngỏ:
“Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm cộng sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Đó là kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.” (TN)
Thơ Nguyễn Chí Thiện.
Hoa Địa Ngục
Hoa địa ngục tưới bằng xương, máu, thịt
Trộm mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa trưởng thành trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt!
Những Thiếu Nhi
Những thiếu nhi điển hình chế độ
Thủa mới đi tù trông thật ngộ!
Lon xon không phải mặc quần
Chiếc áo tù dài phủ kín chân
Giờ thắm thoát mười xuân đã lớn
Mắt mũi vêu vao, tính tình hung tợn
Mở miệng ra là chửi bới chẳng từ ai
Có thể giết người vì củ sắn củ khoai!
NCT, 1966
Lãnh tụ
Lãnh tụ béo nục
Dân đen gầy rục
Lao động hùng hục
Họp hành liên tục
Đói ăn khắc phục
Kêu ca tống ngục
Cộng sản đánh gục
Đời mới hết nhục!....
NCT, 1962
Đau Đớn Lắm
Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ
Sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi!
Mấy chục năm trời xương máu đổ đi
Thử hỏi dân đen thu được những gì?
Ngoài một số từ lừa mị kẻ ngu si!
Người lính cũ nay gọi là chiến sĩ
Song vẫn vác, vẫn khuân, vẫn đói nghèo , vẫn bị
Đẩy đi chiến trường chết hoài, chết phí
Cho một lũ trung ương lợn ỉ!
Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ
Sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi!
NCT, 1970
Từ Tưởng Bước Sang Hành Động
Từ tư tưởng bước sang hành động
Phải có cầu ngôn ngữ giao thông
Trên dòng sông chuyên chính mênh mông
Đừng nghĩ chuyện xây cầu bắc cống
Song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sống
Âm thầm đưa tư tưởng sang sông
Qua muôn trùng hệ thống xiềng gông
Đảng ra sức dựng thay cầu cống
Thoát khỏi đầu là tư tưởng sống
Sẽ có ngày tạo những kỳ công.
NCT, 1971
Trên Mảnh Đất
Trên mảnh đất Đảng gieo mầm tội lỗi
Trong lành cũng phải tanh hôi
Trẻ con chưa nứt mắt đã tù rồi
Bạo lực đi về rất vội
Chết trận, chết tù, hỡi ơi xã hội
Biết bao là vợ goá, con côi
Bán trôn rồi lại bán cả mồ hôi
Mà đói rét vẫn quần cho sớm tối
Mảnh đất chờ trông và sám hối
Thức giả tiêu sầu chai nước lã đun sôi
NCT, 1964
Hôm Nay 19-5
Hôm nay 19-5
Tôi nằm
Toan làm thơ chửi Bác
Vần thơ mới hơi phang phác
Thì tôi thôi
Tôi nghĩ Bác
Chính trị gia sọt rác
Không đáng để tôi
Đổ mồ hôi
Làm thơ
Dù là thơ chửi Bác
Đến thằng Mac
Tổ sư Bác
Cũng chửa được tôi nguệch ngoạc vài câu
Thôi hơi đâu
Mặc thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu, xoa đầu, mơn trớn Bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ cha Bác!
NCT, 1964
Từ Buổi Đảng Về
Từ buổi Đảng về họ Mạc tới thăm
Do thông cảm chỉ ngồi chơi chốc lát
Miếng thịt miếng thà bỏ rơi đũa bát
Trẻ già khao khát tháng năm
Con chó con mèo mất tích, mất tăm
Vì đâu nông nỗi?
Chiếc kéo Đảng dùng cắt tem phân phối
Gạo ngô từng lạng từng cân
Đã cắt nhỏ tình thân cốt nhục
Manh áo, niêu cơm, cuộc đời rữa mục
Vợ chẳng cậy chồng, con chẳng cậy cha
Mẹ hiền đành ôm bụng tống thai ra
Giỗ tết nói chi người trong mả
Chao ơi, buồn tất cả
Mất cả rồi những bản tình ca
Những điệu ru triều mến thiết tha
Gắn bó với ta từ hồi ẵm bú
Trẻ con đói chột còi lam lũ
Còn đâu bi, đáo, khăng, cù?
Tiếng saó diều vời vợi chiều thu
Chỉ còn là âm hưởng vi vu thời xa cũ
Luyến tiếc, than van di tù lượt lũ
Thiếu chi rừng rú hoang vu
Để đất vàng sao cùng ánh sáng mùa thu
Dựng những trại tù làm trụ
Ôi từ buổi Đảng về làm chủ
Khổ nhục chất chồng không thể đo cân
Cụ Mác ơi, mỉa mai và quá đủ!
Con chuột mà có dịp tháo thân
Cũng ba cẳng bốn chân
Chạy khỏi cái thiên đường của cụ!
NCT, 1967
Từ Vượn Lên Người
Từ vượn lên người mất mấy triệu nãm
Từ người xuống vượn mất bao năm?
Xin mời thế giới tới thăm
Những trại tập trung trong núi rừng sâu thẳm!
Tù nhân ở truồng từng bầy đứng tắm
Rệp muỗi ăn nằm hôi hám tối tăm
Khoai sắn tranh giành, cùm, bắn, chém, băm
Đánh đập tha hồ, chết quăng chuột gậm!
Loài vượn này không nhanh mà rất chậm
Khác vượn thời tiền sử xa xăm
Chúng đói chúng gầy như những cái tăm
Và làm ra của cải quanh năm
Xin mời thế giới tới thăm!
NCT, 1967