Thái Tú Hạp
giới thiệu thi phẩm
"Ngày Đi Thương
Sợi Khói Bên Nhà"
của Lâm Hảo Dũng
Thái Tú Hạp
Trên những suối nguồn cao nguyên Đông phương êm ả, tôi thực sự đã khám phá tâm thức mình gần gũi với quê hương, gần gũi với những chân tình của một thời nồng thắm yêu thương nhất. Những mệt mỏi theo đuổi trò chơi ngôn ngữ thời thượng đến lúc không còn là vọng tưởng viễn mơ, không là những lôi cuốn của một thứ hành tinh mới lạ nơi đất khách. Những ao thu trong vắt của Nguyễn Khuyến. Những mùa xuân ngàn mai rực rỡ của Tiên Điền Nguyễn Du. Những tiếng võng trưa hè của Bàng Bá Lân, của nắng trong vườn xanh biếc ngọc trong thơ Nguyễn Bính. Tiếng chim quốc vọng bên ngàn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan. Thế giới đó mới là cõi rung động đích thực miên viễn... cho dù hiện hữu chìm sâu trong tiềm thức hoang vu. Nhưng chỉ trong phút giây nào đó, tâm chợt động nhớ về. Vùng trời yêu dấu bỗng hiện đến một cách kỳ diệu tuyệt vời. Cũng như buổi chiều hôm nay. Mở cánh cửa sổ nhìn qua bên kia đồi cây khẳng khiu Monterey Park. Tiếng động cơ chiếc máy bay trực thăng vút qua bầu trời yên tĩnh. Tôi có cảm tưởng mình đang lạc lõng trong cánh rừng cao nguyên thuở chiến chinh nơi quê nhà. Và cũng từ những giao động nguyên vẹn tận cùng nhớ nhung, tôi đã bị cuốn hút vào thế giới thi ca của Lâm Hảo Dũng.
Ngày trước, cuộc chiến đang hồi khốc liệt, tuổi trẻ chúng tôi hiên ngang nhập cuộc và tung cánh khắp bốn vùng chiến thuật. Những Luân Hoán, Thành Tôn, Cao Thoại Châu, Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Hảo Dũng, Mường Mán, Hoàng Lộc, Hà Thúc Sinh, Tô Thùy Yên, Tạ Ký... những bài thơ mang tâm tư người lính chiến gởi về hậu phương. Trong những dòng thơ bốc lửa ngút ngàn đó, tôi đã yêu Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Hảo Dũng:
Một mai về lại Tam Biên đó
Hãy ngắm Poko núi Phượng Hoàng
Thấy tao như một vầng trăng nhỏ
Ngủ dưới chân rừng đêm tối đen
Nguyễn Bắc Sơn:
Một ngày chủ nhật phơi giày trận
Ta bỗng tìm ra một vết thương
Vết thương bàng bạc như mây khói
Ngưng đọng nhà ai ở cuối đường...
Thi tập ngày đi thương sợi khói bên nhà của Lâm Hảo Dũng đã mở ra những vùng kỷ niệm, những sông núi thôn làng miền Nam mật ngọt, những cao nguyên heo hút bụi mù Pleiku, Kontum, những miền Trung Quảng Trị, Qui Nhơn bóng dừa xanh ý nhớ.
Sáng nay về tới rừng Banhet
Còn nhớ đồi cao dốc tử thần
Ta đã một thời đi chiến đấu
Một thời lữ khách rất cô đơn
(Ngày Về Banhet)
Thơ của Lâm Hảo Dũng chơn chất, đôn hậu, thuần tính như một người lính bình thường, chỉ biết làm tròn bổn phận nơi chiến trường. Không tham vọng, không phản trắc anh em đồng đội, mang cái hào khí lẫm liệt của anh hùng Trần Bình Trọng, của chiến sĩ Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú...
Đi đâu mất rồi hỡi những Chuyên Chư
Quê nước Việt bên kia bờ Nam Hải
Cũng có kẻ mơ làm người Nguyễn Trãi
Giữa rừng thiêng ngồi viết hịch Bình Ngô
(Đi Đâu Mất Rồi Hỡi Những Chuyên Chư)
Thơ của Lâm Hảo Dũng đã thoát ra khỏi cái không gian đầy bụi đen của thủ đô, của thành phố đầy vị kỷ, ty tiện. Hồn thơ Lâm Hảo Dũng mênh mông như mây trời, như dòng sông biển cả. Chúng ta đã cảm nhận nơi dòng thơ đó những hơi thở nồng nàn tình quê. Ngoài cái tính chất bình dị hương đồng phấn nội, tình yêu cũng chơn chất như ca dao, như cô gái quê lần đầu nuôi mộng:
Em cắn dùm ta những quả sim
Đời đi lính trận cỏ xanh hồn
Là khi theo gió về trên núi
Còn gởi sương chiều mộng cuối thôn
(Ngày trở lại Bồng Sơn)
Cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc Việt Nam để dành tự do, hòa bình đã khơi dựng hàng mấy chục năm qua. Máu xương của bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tô thắm quê mẹ. Từ đó nở ngát những đóa hoa thơ lửa ngời. Những Quang Dũng, Hửu Loan, Nguyễn Bắc Sơn, Diên Nghị, Nguyễn Xuân Thiệp, Tô Thùy Yên, Lâm Hảo Dũng... những ý thức lên đường cùng một chiến tuyến, cùng một ý niệm cao quý gìn giữ non sông.
Năm xưa Tây tiến nay Đông tiến
Về núi Tà Lơn xuống Biển Hồ
Ta biết ngươi buồn say rất nhẹ
Một hồn du tử nhớ không ra
Ta có bạn hiền đi chiến đấu
Từ khi sông Lại nước khô nguồn
Nghe tiếng mẹ già rơi nước mắt
Giữa ngày giặc chiếm đất Bồng Sơn
(Trên đường Đông tiến)
Những địa danh Chư Prong, An Lộc, Cổ thành Quảng Trị, Tam Biên, Hạ Lào, Khe Sanh, U Minh, Thát Lát... đã oanh liệt đi vào chiến sử, đi vào lòng tin yêu của dân tộc. Bỗng nhiên thế sự đổi thay., đại bàng gãy cánh tức tưởi, căm hận. Hàng ngũ quân đội lơ láo tan hàng, không biết giạt về đâu. Kẻ bị đọa đầy trong ngục thất, người vùi thây ngoài biển khơi. Lũ chúng ta thì sầu hận lưu vong nơi xứ người cô đơn.
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh (Vũ Hoàng Chương)
Quê hương đã nhuộm màu tang tóc, lúc trở về cũng chỉ hình ảnh xác xơ điêu tàn thương tiếc
Năm năm trở lại Sài Gòn
Chiều nay trời không có nắng
Hai hàng me vẫn xanh rờn
Lòng ta huyệt buồn xa vắng
Năm năm trở lại Sài Gòn
Đường xưa có mùi máu đỏ
Ai cười vu vơ trên phố
Nghiến ta chết nát tâm hồn
Năm năm trở lại Sài Gòn
Nhà xinh bên người chủ mới
Mắt sâu hai hàng mộ tối
Ta ơi sao khóc trong lòng
(Năm năm trở lại Sài Gòn)
Hơn hai mươi năm làm thơ ca ngợi cuộc đời, ca ngợi tình yêu và quê hương đầy chinh chiến, đến hôm nay soi mình trên dòng sông viễn xứ, mới cảm thấy quạnh hiu. Và cũng chính từ niềm cô đơn ấy đã thôi thúc Lâm Hảo Dũng chiều ý bằng hữu hoàn thành tác phẩm đầu tiên nơi hải ngoại.
Tôi đã trang trọng đi vào cõi thơ Lâm Hảo Dũng như đi vào cái thế giới đầy yêu thương nơi quê nhà. Những tên làng tên xóm, những cây trái mật ngọt, là mỗi không gian cưu mang những kỷ niệm, những ngậm ngùi thương tiếc, những xót xa thâm tình. Tôi đã chia xẻ với thi sĩ Lâm Hảo Dũng những nỗi niềm sinh tử huyền hoặc của kiếp người trôi nổi trong cuộc đời giả tạm buồn tênh. Tôi đã bàng hoàng sống lại những giây phút đổi thay nghiệt ngã.
Giữa những xô bồ, chán nản của đời sống lưu vong, thực sự tôi đã tìm thấy chút lửa ấm trong những dòng thơ của Lâm Hảo Dũng, miền đất đầy chân tình của quê hương và bằng hữu. Và tôi cám ơn Lâm Hảo Dũng cho tôi nhìn lại những cụm mây trắng tinh khiết bay qua bầu trời California chiều nay, những cụm mây tuyệt vời của thi nhân mà bấy lâu tôi không còn thời gian nghĩ đến.