VÔ MINH VÀ PHIỀN NÃO
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
PHƯƠNG DUNG chuyển dịch
Con người ngay từ lúc chào đời đã kèm theo đau khổ. Tiếp theo đó là sự sống phải đối diện với các loại bệnh tật, già nua và những thứ phiền não khi cuộc sống gặp cảnh đau buồn hay không đạt được những gì mình yêu thích. Đau buồn hơn nữa là con người còn phải đối diện với chiến tranh do chính con người gây ra. Quán xét kỹ về cuộc đời của một con người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, chúng ta không thật sự tìm thấy đâu là hạnh phúc trường cửu mà chỉ thấy những điều bất toàn và đầy dẫy những chuỗi khổ đau. Thật vậy, khi nào chúng ta còn sống trong cõi đời nầy và còn bị những cảm xúc phiền não làm cho ô nhiễm tâm trí, điều đó cho biết là chúng ta còn đang trôi nổi trong cõi luân hồi thì chắc chắn chúng ta còn đau khổ dài lâu. Làm sao có thể tránh được khổ đau trong khi cuộc sống của chúng ta hàng ngày điều bị chi phối bởi các cảm xúc làm cho tâm hồn ta xao động để rồi cuối cùng ta cũng sẽ gặp các tình cảnh khốn khổ đau buồn.
Là con người ai cũng phải già nua, bệnh tật và chết. Chết là một điều tự nhiên của đời sống và đến với tất cả mọi người, do đó chúng ta không nên kinh sợ, không nên ngạc nhiên khi bị bệnh tật hay cái chết đến với chúng ta.
Vậy thì khi nào con người không thích bệnh tật và cũng không thích chết, chúng ta chỉ còn cách là chấm dứt vòng luân hồi để không còn phải sinh ra trong cõi đời nữa. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta có thể chấm dứt được vòng luân hồi và sự đau khổ của các vấn đề sinh, già, bệnh, chết?
Khổ đau, phiền não là từ vô minh phát sinh và vô minh xâm nhập tất cả cảm xúc tiêu cực trong ta. Nên nhớ nơi nào có phiền não thì nơi đó có vô minh và đó cũng là nguyên nhân đưa chúng ta trôi nổi trong vòng luân hồi sinh tử. Để có thể nhổ được gốc rễ của vô minh chúng ta phải trở về với bản tâm chân thật vốn luôn trong sáng và tỉnh thức của mình. Khi nhận thức được điều nầy, chúng ta hiểu rõ là muốn thoát vòng sinh tử điều căn bản là chúng ta phải chuyên cần tu học để làm hiển lộ Phật tánh. Trước nhất cHúng ta phải nuôi dưỡng và phát triển ước muốn nầy. Chúng ta phải hướng về tất cả chúng sinh với lòng từ bi mong cho họ được an lành hạnh phúc và thoát khỏi mọi khổ đau. Vì thế muốn đạt tới mục tiêu cao cả nầy, chúng ta phải tu tập để được Giác Ngộ và Giải Thoát.
Bình thường chúng ta thấy cuộc đời thật là quý giá vì chúng ta có tự do và gặp nhiều may mắn. Nhưng đời người không ai có thể tồn tại mãi, bởi vì sớm hay muộn chúng ta cũng phải đối diện với cái chết. Quán chiếu kỹ chúng ta sẽ thấy con người là một dòng biến chuyển sinh diệt không ngừng. Biến chuyển về thân là cơ thể mà còn biến chuyển về tâm nữa. Nói đến biến chuyển tức là nói đến sự vô thường. Lâu nay con người sống ở thế gian thường bị nó đánh lừa khi nói về tình cảm hay sự thủy chung. Khi gặp hoàn cảnh hay ngoại cảnh chuyển đổi thì tâm cũng thay đổi. Vì tâm cũng là dòng chuyển biến tốt hay xấu đều tùy thuộc theo hoàn cảnh. Vì thế chúng ta cần tu tập để có được trí huệ nầy để suy gẫm lời Phật dạy. Khi nào chúng ta thật sự nhận thức được cuộc đời là vô thường thì từ đó cuộc sống sẽ bớt khổ đau. Để thấy rõ thân, tâm là không thực có, duyên hợp rồi tan, chúng ta phải thâm nhập lý vô thường để có thể đứng vững trước những đổi thay, không sợ hãi cái chết và buồn khổ thì tâm mới được bình an.
Thật sự không phải ngồi thiền và tụng kinh mới là tu tập. Chúng ta phải nỗ lực quán chiếu để phát sinh trí huệ và thực hành đức hạnh từ bi làm nhiều điều thiện, tạo nhiều phước lành mang lại lợi ích đến cho chúng sinh. Phải thực hành đầy đủ hai mặt trí huệ và phước báu thì mới thực sự là tu. Dù cho để đạt đến quả vị Phật là chuyện không thể một sớm một chiều là thành tựu được, nhưng khi thực tập hàng ngày với lòng thành khẩn, cuối cùng thì chúng ta cũng có thể giác ngộ. Vì thế ngay từ bây giờ chúngta nên nuôi dưỡng ý nguyện đạt được sự giải thoát để chấm dứt khổ đau. Chúng ta nên phát tâm từ bi rộng lớn với hoài bão giúp cho tất cả chúng sinh cùng được thoát khổ như mình. Với ước nguyện nầy chúng ta phải phục vụ tha nhân và tu tập để đạt đến quả vị Phật.
Khi chúng ta chí thành phát tâm và nuôi dưỡng ước muốn cao quý mong ước giải thoát để có khả năng cứu độ chúng sinh, lúc ấy tâm chúng ta sẽ có được một năng lực kiên cường và vô cùng cao thượng.
Một khi muốn được Giải Thoát đạt tới Niết Bàn, chúng ta phải hiểu tâm bất an là chướng ngại lớn lao cho sự giải thoát của ta. Vì vậy mà tâm bất an chính là kẻ thù gây trở ngại cho chúng ta trên đường tu tập để được giải thoát. Để có thể chiến thắng được kẻ thù nầy, trên thực tế thật là khó khăn. Bởi tâm bất an phát sinh từ sự vô minh, muốn hết bất an chúng ta phải có khả năng loại trừ được tâm vô minh. Và điều duy nhất có thể giúp chúng ta chiến thắng được vô minh là sự hiểu biết về Vô Nhã.
Để có được trí tuệ hiểu biết về Vô Ngã chúng ta cần tu tập về thiền quán để tâm ta dần dần có được an Định. Vì thế để sự tu tập mang lại hiệu quả, chúng ta phải luôn luôn cố gắng tránh làm những điều bất thiện. Muốn xa lánh những cảm xúc bất an của tâm, chúng ta phải cẩn thận trước những hành động của mình. Nên nhớ khi chúng ta gây nên những hành động xấu tức là chúng ta tạo nên nghiệp chẳng lành. Đó là nguyên nhân gây nên cảm xúc phiền não bất an trong tâm ta.
Muốn có được thiện nghiệp, trước tiên chúng ta nên tu tập theo thập thiện làm mười điều lành, và chúng ta phải hiểu biết về thuyết Nhân Quả và Nghiệp Báo. Nếu chúng ta làm điều xấu ác với kẻ khác, tức là ta gây nhân xấu. Như vậy chắc chắn chúng ta gặp quả xấu. Khi làm những điều tốt, tâm ta sẽ được an vui.
Mười điều bất thiện đưa dẫn chúng ta đến ác ngiệp và làm cho tâm bất an là: sát sanh giết hại, trộm cắp, tà dâm (thuộc về ác nghiệp do thân gây ra); Nói dối, nói lời bia đặt, nói lời thị phi đàm tiếu và nói lời độc ác (thuộc về ác nghiệp do khẩu gây ra); Kế đến là lý tưởng sai quấy, ý muốn hại người và si mê tham đắm (thuộc về ác nghiệp do ý tưởng gây ra). Để đối trị với mười điều bất thiện nầy, chúng ta phải cố gắng tu theo thập thiện.
Khi có sự hiểu biết về những hậu quả của mười điều bất thiện là chúng ta sẽ bị tái sinh vào các cảnh khổ như bị đọa làm xúc sinh chẳng hạn. Muốn tránh các cảnh khổ nầy, chúng ta phải từ bỏ các hành động gây nên nghiệp dữ. Làm được như vậy tâm chúng ta dần dần sẽ đi đến giải thoát.
Nuôi dưỡng tâm bình đẳng cũng là phương cách tu tập rất tốt. Bởi vì chúng ta thường chỉ thương yêu những người thân của mình. Còn những người chúng ta không thích hoặc bị xếp vào hàng kẻ thù thì chúng ta lại hài lòng khi thấy những điều không may xảy đến với họ. Chẳng hạn như người Tây Tạng chúng tôi khi nghe đến những thảm cảnh khổ đau và bất hạnh xảy đến cho quê hương mình thì đau buồn và cùng nhau tới chùa cầu nguyện. Nhưng khi Trung Quốc bị lũ lụt thì thay vì cầu nguyện cho các nạn nhân bất hạnh, người Tây Tạng chúng tôi có khi lại cảm thấy vui mừng và hài lòng. Điều nầy cho thấy tâm phân biệt cũng là tâm bất thiện và chúng ta cần phải loại trừ ngay. Đây cũng là một thái độ thật sai lầm của tâm thức. Chúng ta cần hiểu là những người thân của chúng ta hiện giờ không hẳn là người thân của chúng ta ở những kiếp trước. Có khi họ từng là kẻ thù của chúng ta. Còn những kẻ thù của đời nầy, đôi khi lại là thân nhân của chúng ta ở các kiếp sống về trước. Như vậy tâm phân biệt cần phải sửa đổi vì nó phát sinh từ sự tham đắm và thú hận.
Con người chúng ta thường sinh lòng thương xót khi thấy người tàn tật hay nghèo khổ. Nhưng khi thấy người học thức, giàu có và danh tiếng, chúng ta lại thường sinh tâm ganh tị và tranh đua. Đây là tâm từ bi phân biệt và vướng mắc, không phải là lòng vướng mắc, không phải là lòng từ bi đích thực. Hậu quả của nó là đưa dẫn chúng ta đến những ràng buộc khổ đau. Vì vậy chúng ta nên cố gắng tu tập và phát triển tâm bình đẳng đối với mọi người. Tâm bị ràng buộc, vướng mắc, phân biệt, hận thù, ghét bỏ sẽ làm cho con người chúng ta mất tự do và đau khổ.
Chúng ta nên thực tập quán tưởng là trong vô số kiếp sống trôi nổi ở cõi luân hồi, chúng ta nào cũng đã từng có liên hệ với chúng ta, có người đã từng là Mẹ của chúng ta trong tiền kiếp. Vì thế ta hãy nhớ đến sự tử tế của họ và để đền đáp lại, chúng ta nên đối xử tử tế với họ ở kiếp nầy, tất cả chúng sinh cũng bình đẳng như vậy chúng ta sẽ thoát được các trạng thái thương người nầy ghét người kia hoặc kết tập phe nhóm hay bè phái.
Khi chúng ta tu tập đạt tới bình an, hạnh phúc ở nội tâm, chúng ta sẽ thấy người khác cũng có khả năng đạt được như chúng ta vậy. Vì thế, với hoài bão mong ước giúp cho toàn thể chúng sinh được Giác Ngộ và Giải Thoát, chúng ta phải nỗ lực tu tập để chính ta được Giác Ngộ trước. Đó là điều kiện duy nhất để có thể giúp đỡ chúng sinh.
Với lòng mong ước mang lại hạnh phúc, an vui cho chúng sinh, tâm chúng ta cũng sẽ an vui và hạnh phúc. Khi có được sự bình an trong tâm, ta có thể giúp cho kẻ khác được hạnh phúc. Cá nhân tôi, tôi thường cố gắng tu tập để giữ tâm luôn được bình an và tỉnh thức. Nhờ vậy hki phải đối diện với các hoàn cảnh khó khăn tôi có sức nhẫn nhục chịu đựng và giải quyết nó dễ dàng hơn. Khi mong muốn mang chúng sinh tới bờ giải thoát, chúng ta ai cũng hiểu rằng điều nầy không thể thành tựu bằng cách sử dụng tiền bạc của cải hay thế lực của thế gian. Chúng ta chỉ có một con đường là tu tập để có thể đạt đến giải thoát và từ đó chúng ta có khả năng giúp đỡ người khác. Cũng như nếu chúng ta thực hành Bồ Tát Đạo, ý nguyện phục vụ và cứu giúp chúng sinh thật là cao cả. Đây cũng là sự cúng dường Chư Phật tốt đẹp nhất. Tại sao chúng sinh sợ khổ mà lại luôn chuốc phiền não cho chính mình? Bản chất của họ là sợ khổ đau và mong muốn được an lạc, nhưng vì vô minh họ lại làm cho chính họ đánh mất sự bình an.
Luyện tập cho tâm luôn được bình an và tỉnh thức là nhân duyên duy nhất để giúp ta đạt đến Giải Thoát. Muốn được như vậy chúng ta phải từ bỏ những hành động bất thiện và cố gắng làm nhiều điều thiện, tạo nhiều phước lành. Khi ấy nhân duyên đầy đủ và tâm ta thực sự từ bi trí tuệ, lúc ấy ta có thể đi trên con đường Bồ Tát Đạo để cứu độ chúng sinh.