VÌ SAO CHÚNG TA
KHÔNG AN VUI ?
ĐẠT LAI LẠT MA
VIỆT NGỮ: CHÂN HUYỀN
Vì sao trong cuộc đời, chúng ta không thể an hưởng hạnh phúc lâu dài như ý nguyện mà lại thường bị khổ đau phiền lụy? Đạo Phật giải thích rằng bình thường cái tâm chúng ta đầy những cảm nghĩ hoang đàng vô kỷ luật, và chính vì ta không có những quy củ tâm linh để kiểm soát chúng nên chúng ta đành bất lực. Kết quả là các cảm xúc và tư tưởng kiểm soát chúng ta .
Tôi muốn nói tới gốc rễ của tất cả các nỗi khổ đau nơi chúng ta, ở tầng lớp vi tế nhất, đó chính là các năng lượng bất thiện của những cảm nghĩ tiêu cực nằm sâu trong tâm ta....Những gốc rễ của khổ đau có sẵn bên trong chúng ta , các gốc rễ hạnh phúc cũng vây. Do đó, ta biết rằng tùy theo tâm mình có kỷ luật nhiều hay ít mà ta có hạnh phúc hay khổ đau. Tâm có kỷ luật, tâm được chuyển hóa đưa tới an vui - trong khi tâm vô kỷ luật, bị các phiền não dẫn dắt đưa ta tới khổ não.
Những cảm xúc trong chúng ta thường bị những năng lượng tiêu cực (bất thiện) trong ta khống chế nhiều hơn là những khuynh hướng thiện lành. Ta cần phải lật ngược cái vòng tròn này lại để cho các cảm nghĩ của ta không còn phải phục tòng các năng lượng bất thiện nữa thì chúng ta sẽ có khả năng kiểm soát được tâm mình.
Các cảm nghĩ bất thiện trong ta thật sự là những năng lượng có tính cách phá hoại. Những gì làm hại ta hay mang tai ương tới đều được gọi là kẻ thù. Những cảm nghĩ bất thiện; kẻ thù đích thực của mình, lại nằm trong người mình! Vậy mới là khó khăn. Kẻ thù ở bên ngoài, ta có thể chạy trốn hay ẩn náu. Đôi khi ta có thể đánh lừa hắn nữa. Những kẻ nội thù (nằm trong ta), thì thật sự không biết phải làm sao.
Câu hỏi nòng cốt cho người tu tập theo con đường tâm linh là ta có thể thắng được kẻ nội thù đó chăng? Đây là sự thử thách quan trọng nhất của chúng ta. Có vài triết gia thời cổ cho rằng, tánh cách ô nhiễm, bất thiện là bản thể của cái Thức (Consciousness). Không thể tách rời nó ra khỏi ta được. Nếu Thức còn thì những bất tịnh đó còn hiện diện. Nói như thế ngụ ý là ta không thể thắng được nó. Nếu thực sự như vậy thì tôi thà làm một người theo chủ nghĩa hưởng lạc. Tôi chẳng cần cố gắng tu tập làm gì mà đi tìm khuây khỏa trong rượu hay trong các thứ khác, bỏ qua luôn các ý tưởng về tu luyện tâm linh . Và tôi cũng chẳng cần để ý gì tới những thắc mắc triết học đó. Có lẽ, đó là cách tốt nhất để có hạnh phúc chăng?
Như chúng ta đã biết, hình thức tu tập tâm linh cao nhất là phát triển lòng vị tha (Tâm Bồ Đề.): mong dược giác ngộ để giúp cho muôn Loài. Bồ Đề Tâm là trạng thái quý giá nhất của tâm, nguồn gốc cao siêu của lòng thiện muốn hoàn thành những ước nguyện chân thực, và là căn bản của các hành động vị tha. Tuy nhiên, Tâm Bồ Đề chỉ thể hiện được khi chúng ta cố gắng đều đặn và có phương pháp. Muốn thế, chúng ta cần có kỷ luật để luyện tâm và chuyển hóa tâm.
Như chúng ta đã biết, chuyển hóa tâm không phải là chuyện có thể làm được trong một ít ngày mà là một tiến trình tiệm tiến (chuyển hóa từ từ, từng chút một).
Dù có những trường hợp đốn ngộ (chứng đạo bất ngờ, ngay lập tức), nhưng đa số chúng đều không có giá trị lắm, và chỉ có tính cách nhất thời.
Khi những kinh nghiệm bất chợt đó xảy ra như những tia chớp lóe lên, hành giả có thể rất xúc động và phấn khởi, nhưng vì chuyện này không có căn bản là kỷ luật kiên trì nên nó rất khó lường, và sự chuyển hóa tâm chỉ rất giới hạn. Trái lại sự chuyển hóa đích thật thường bền lâu vì nó bắt nguồn từ sự cố gắng liên tục, trên một căn bản vững chắc.
Sự chuyển hóa tâm trường cửu chỉ xảy ra sau một thời gian huấn luyện lâu dài, bền bỉ và có kỷ luật mà thôi.
Ý tưởng muốn thay đổi tận gốc rễ con người khởi đầu hình như một chuyện không thể thực hiện được. Thật ra, đó là điều có thể làm được, khi ta có kỷ luật như tập thiền quán chẳng hạn. Chúng ta chọn một đối tượng đặc biệt và luyện tập để có thể chú tâm vào đối tượng đó.
Bình thường nếu ta tự quan sát một thời gian ngắn thôi, ta cũng thấy ngay là tâm trí ta không dễ dàng tập trung.
Đang suy nghĩ về chuyện gì đó, bỗng nhiên ta thấy đầu óc mình bị lãng ra, lại để ý sang một chuyện khác. Ý tưởng trong đầu ta chạy từ chuyện này sang chuyện kia vì ta không có thói quen chú tâm vào một chuyện. Qua thiền quán, ta có thể luyện được khả năng chú tâm vào một đối tượng nhất định.