TÔN GIÁO TRONG
ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
PHƯƠNG DUNG CHUYỂN NGỮ
Trong đời sống hàng ngày của con người lẽ dĩ nhiên vật chất đóng một vai trò quan trọng và cần thiết. Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng cuộc đời chúng ta cũng bị chi phối rất lớn bởi sức mạnh tâm linh. Ý thức và quan niệm về giá trị cuộc sống. Nói về con người, chúng ta phải hiểu là cơ thể vật chất và tâm linh luôn luôn liên hệ mật thiết với nhau. Về phần cơ thể, chúng ta phải thỏa mãn những nhu cầu của chúng như: thức ăn để dinh dưỡng, y phục để mặc và những sinh hoạt tốt lành. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng phần tinh thần tức tâm linh rất là quan trọng. Vì con người cần phải có hạnh phúc, an vui nơi nội tâm để giảm bớt sự khổ đau của cuộc sống vốn bắt nguồn từ tư tưởng sai lầm. Chính vì vậy mà con người cần đến tôn giáo, vì tôn giáo có thể cho chúng ta thức ăn về mặt tinh thần. Và cũng vì vậy mà tôi tin tưởng rằng tất cả tôn giáo đều có khả năng mang lại hòa bình và an lành nội tâm cho con người, và điều nầy phải được bắt đầu từ trong đời sống tinh thần của từng người một.
Tôi thường nghĩ rằng tôn giáo đóng góp một vai trò rất quan trọng trong đời sống con người. Vì vậy nếu những tôn giáo khác biệt cũng có sự cảm thông, cùng ngồi lại để học hỏi lẫn nhau và cùng sống trong sự hòa hợp thì không gì tốt đẹp hơn. Bởi vì nếu chúng ta sống riêng rẽ, cô lập thì chẳng mang lại lợi ích gì cho ai cả. Chẳng hạn như trường hợp của Phật Giáo Tây Tạng, trước đây đã sống rất cách biệt nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn và núi đồi hoang dã, điều đó không có gì sai trái, nhưng ngày nay thì điều đó không còn thích hợp nữa nếu chúng ta tự cô lập mình với người khác.
Con người được sinh ra với căn cơ và những trình độ suy nghĩ khác biệt nhau nên một tôn giáo duy nhất sẽ không thể nào mang lại đầy đủ lợi ích để đáp ứng cho tất cả mọi người. Đứng về mặt tinh thần thì nhiều giáo lý và triết lý sẽ cung ứng được với nhiều trình độ tư duy khác nhau của con người. Do đó, con người sẽ được lợi ích hơn là chỉ có một tôn giáo duy nhất .
Mỗi tôn giáo đều có giáo lý và đặc điểm riêng, vì vậy nếu có cơ hội gặp gỡ những truyền thống tôn giáo khác chúng ta cũng có thể tìm hiểu và học hỏi thêm những điểm tốt đẹp của những pháp tu mới với lòng tôn trọng mà không cần phải từ bỏ đi lòng tin nơi tôn giáo của mình. Chẳng hạn như những tu sĩ của Ki-Tô Giáo đã dấn thân và đóng góp với xã hội những việc làm vô cùng cao cả. Bản thân tôi rất kính trọng những điều nầy và thường nghĩ rằng trong lãnh vực nầy chúng tôi có nhiều điều phải học hỏi nơi các tu sĩ Ki-Tô Giáo. Hơn nữa các tu sĩ Ki-Tô Giáo và kể cả những tín đồ Ki-Tô Giáo thường sống trong đức tin mạnh mẽ và lòng nhân ái. Đây là lý tưởng của các tu sĩ Phật Giáo và về điểm nầy thì Ki-Tô Giáo và Phật Giáo có nhiều điểm tương đồng.
Đôi khi có người nào đó hỏi rằng: như vậy người Ki-Tô Giáo có thể học hỏi những gì nơi Phật Giáo? Chúng tôi có thể trả lời là ngoài những phương pháp tu tập thiền định, Phật Giáo Đại Thừa còn có những phương pháp đặc biệt để rèn luyện đức hạnh Từ Bi, sự cảm thông và tình yêu thương gửi đến muôn loài. Những tu sĩ và tín đồ của Ki-Tô Giáo có thể học hỏi và thực tập các phương pháp nầy trong đời sống hằng ngày.
Về sự khác biệt tôn giáo, cá nhân tôi không hề gặp khó khăn nào trong vấn đề nầy. Chẳng hạn như tham dự một buổi lễ cầu nguyện của tôn giáo khác tôi không hề cảm thấy khó chịu vì lúc đó tất cả mọi người tham dự đều có một đức tin chân thành về sự hiện hữu thiêng liêng của một đấng vô hình nào đó rất là huyền diệu mà con người có đức tin có thể cảm nhận được. Là một con người chúng ta luôn cố gắng phát triển lòng từ bi và luôn đối xử với kẻ khác bằng lòng tử tế để cuộc sống trở thành tốt đẹp và có ý nghĩa hơn thì dâng lời cầu nguyện đến một đấng thiêng liêng để cứu khổ cho nhân loại cũng là việc tốt nên làm.
Nhiều người đã hỏi tôi rằng tôn giáo có thể đóng góp được gì cho hòa bình của thế giới, đặc biệt là trong tình trạng rối ren như hiện nay. Thật ra mọi khó khăn của thế giới chỉ có thể giải quyết khi con người nhận thức được rằng mọi dân tộc trên quả địa cầu nầy đều có sự tương quan lệ thuộc lẫn nhau. Trong đó có những khó khăn về kinh tế, chính trị, quân đội và kể cả sự kỳ thị chủng tộc. Nếu con người không có tâm phân biệt người nầy hay người kia thuộc sắc tộc nào, vùng nào hoặc miền Nam hay miền Bắc mà tận cùng bản chất con người tất cả chúng ta đều giống nhau, thì chúng ta sẽ tránh được biết bao điều tai hại.
Giống như trong gia đình, mặc dù có người mạnh, có người yếu, có người thông minh, người khờ khạo... Dù cho có sự khác biệt như vậy nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng họ vẫn là thành viên của gia đình ấy. Cũng như vậy, dù là có những sự khác biệt ở bên ngoài nhưng loài người vẫn là thành viên của đại gia đình ở địa cầu nầy và chịu sự tương quan lẫn nhau.
Thế giới càng ngày càng rối ren hỗn loạn đã dạy cho chúng ta bài học là tất cả con người đều lệ thuộc vào nhau. Để có thể sống còn nơi địa cầu nầy chúng ta cần phải nương tựa vào nhau. Nếu cho rằng chỉ có một số người được sống còn, những người kia bị tiêu diệt là một điều sai lầm trầm trọng. Không phải chỉ có một số quốc gia lệ thuộc vào nhau mà tất cả các quốc gia yếu kém cùng các Châu trên quả địa cầu nầy đều ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy chúng ta phải nhận ra trách nhiệm của mình đối với đồng loại và chúng ta phải xem những người láng giềng cùng những dân tộc, sắc tộc khác đều là anh chị em của mình và cùng là thành viên của đại gia đình nhân loại. Về lãnh vực nầy tôi tin rằng các tôn giáo có thể đóng góp hữu hiệu cho hòa bình của thế giới.
Mọi người đều biết chiến tranh luôn luôn là điều bất thiện bởi vì nó đưa tới sự tàn sát và chết chóc đau thương. Nhưng qua sự được học hỏi giáo lý và tu tập, con người có thể được rèn luyện để trở thành có ý chí, thành thật và can đảm. Những đức tính nầy rất cần thiết để quyết định những vấn đề chính trị. Nhờ sự học tập giáo lý và rèn luyện đức tính từ bi và trí tuệ mà con người có thể áp dụng tích cực ở mọi lãnh vực của đời sống như kinh tế, chính trị và ngay cả quân sự một cách đứng đắn tốt lành thì thế giới có thể giảm thiểu sự khổ đau do chiến tranh gây nên. Bởi vì tất cả hành động của con người đều xuất phát từ tâm thức của họ, vì vậy mà tôi nghĩ rằng các tu sĩ Phật Giáo nên tham gia vào các việc từ thiện nhiều hơn để góp phần vào việc cải thiện xã hội. Ki-Tô Giáo tại Châu Mỹ La Tinh đã tham gia tích cực vào lãnh vực chính trị và một số hoạt động cách mạng, điều nầy thật đáng ca ngợi nếu việc làm của họ chính đáng và bắt nguồn từ một tâm hồn trong sạch. Thật là tuyệt diệu nếu từ nơi sự cầu nguyện và thiền định đã mang đến cho chúng ta sức mạnh nội tâm và một đức tin vững mạnh để chúng ta có thể áp dụng trong đời sống cũng như trong các hoạt động xã hội thì thật là hữu ích cho mọi người.
Tôi nhớ có lần một nhà chính trị Ấn Độ đã nói với tôi là những nhà chính trị không thể là một nhà tôn giáo. Nhưng theo tôi thì chính những nhà chính trị cần phải am tường về tôn giáo hơn ai hết. Bởi vì những nhà chính trị là những người phải đương đầu để giải quyết các vấn đề cực kỳ khó khăn của quốc gia. Nếu họ giải quyết các vấn đề của quốc gia với một đường lối sai lầm thì có thể sẽ gây nên hậu quả vô cùng nguy hại cho nhiều người khác. Thế nên những nhà chính trị hành động bằng tâm hồn đã được rèn luyện bởi tôn giáo thì mọi việc sẽ trở thành tốt đẹp hơn. Tôi tin là con người có thể làm được việc đó, khi một người của một tôn giáo nào đó tham gia chính trị, theo tôi nghĩ đó là điều rất tốt.