Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

NIỀM TIN TRONG

KHOA HỌC VÀ ĐẠO PHẬT

 

HT. PRAYUDH PAYUTTO

THÍCH TÂM QUANG dịch

 

Vai trò của niềm tin

Chúng ta hãy đem so sánh một số đặc tính liên quan đến Đạo Phật, Khoa Học, bắt đầu với niềm tin.

Hầu hết các tôn giáo dùng cảm xúc như một năng lực để đạt được mục tiêu. Cảm xúc là một nguồn cảm hứng khơi gợi niềm tin và lòng tôn kính giáo lý, và những cảm xúc, đặc biệt những cảm xúc tạo niềm tin là một phần thiết yếu của đa số tôn giáo. Cảm xúc cũng là cái duy trì niềm tin, lý do đó rất quan trọng nên muốn bảo đảm thì tình trạng cảm xúc đó phải được giữ vững. Nói một cách khác, vì niềm tin rất thiết yếu cho các tôn giáo, cảm xúc luôn được khuyến khích.

Trong khi niềm tin là một sức mạnh tuyệt vời trong hầu hết các tôn giáo thì Phật Giáo lại nhấn mạnh trí tuệ, coi niềm tin chỉ quan trọng trong những bước đầu. Dầu vậy niềm tin phải được sử dụng thận trọng, vì trí tuệ được coi là nhân tố quan trọng bậc nhất để đạt mục tiêu của Đạo Phật.

Tuy nhiên, niềm tin vẫn được coi trọng trong giáo lý Đạo Phật nhưng trong một vai trò khác với tầm quan trọng khác. Cũng có những yếu tố niềm tin trong nghiên cứu Khoa Học mà ở đây nó có vai trò quyết định trong sự tiến bộ về nghiên cứu và điều tra của Khoa Học.

Để thấu hiểu niềm tin rõ ràng, việc lý giải thành nhiều loại rất có lợi. Nói chung, niềm tin có thể chia thành hai loại chính:

Loại thứ nhất là loại ngăn trở trí tuệ. Loại này dựa vào kích động, thậm chí ép buộc, và niềm tin như vậy hẳn phải là hoàn toàn mù quáng. Cấm hẳn việc nghi ngờ giáo lý. Chỉ được phép mù quáng phục tùng. Niềm tin theo loại thứ nhất này không có chỗ cho trí tuệ phát triển.

Niềm tin và phải phục tùng, cứ việc theo không được hỏi. Nét đặc thù này gọi là 'tín điều', thứ chủ thuyết không thể nghi ngờ, có đặc điểm là trung thành triệt để bất chấp lý trí. Nhưng Phật Giáo là một tôn giáo không bị tín điều.

Loại niềm tin thứ hai là con đường tới trí tuệ. Loại này kích thích tính tò mò; khích lệ khởi sự việc học tập. Trên thế giới này có quá nhiều điều cần phải biết. Không có niềm tin, chúng ta không biết phải bắt đầu từ điểm nào, đường hướng nào phải theo để học tập, nhưng khi một người có niềm tin, đề tài hay giáo lý sẽ cho điểm khởi thủy. Niềm tin thức tỉnh sự chú ý và khích lệ chúng ta tiến tới đề mục đã quan tâm. Tin tưởng vào con người, đặc biệt, sẽ dẫn đến việc tiếp xúc và học hỏi nơi người khác. Chẳng hạn có niềm tin vào đoàn thể tăng già, khích lệ chúng ta tới gần các thầy, học hỏi nơi các thầy, và thông suốt được giáo lý.

Điển hình cho loại niềm tin này là chuyện về cuộc đời Ngài Xá Lợi Phất. Ngài lưu ý đến việc học hỏi giáo lý của Đức Phật khi nhìn thấy Thầy A Nhã Kiều Trần Như đi khất thực. Ngài Xá Lợi Phật cảm thấy bị ấn tượng bởi cách đi đứng của nhà Sư nói lên đức tính đặc biệt, kiến thức đặc biệt, tri thức đặc biệt. Muốn tìm hiểu đức tính đặc biệt ấy là gì, Ngài tiến đến gặp A Nhã kiều Trần Như và hỏi về giáo lý. Trên đây là một thí dụ về loại niềm tin thứ hai.

Ngài Xá Lợi Phật, một trong những đại đệ tử của Đức Phật, gặp Thầy A Nhã Kiều Trần Như đi khất thực, ấn tượng bởi dáng dấp của vị thầy này nên đã đến gặp và hỏi về giáo lý. Giáo lý ngắn gọn mà Ngài nhận được khiến Ngài không còn ngờ vực gì sự trung thực về giáo lý của Đức Phật, và đã trở thành một tỳ kheo, một nhà sư Phật Giáo.

Cho nên loại niềm tin này, hay cảm hứng là một ảnh hưởng tích cực, một động cơ khích lệ cho việc học tập. Niềm tin này cho chúng ta điểm trung tâm của việc học tập. Dù niềm tin này theo bất cứ hướng nào, nghị lực của chúng ta vẫn được thúc đẩy thích ứng. Thí dụ, một Khoa Học gia có niềm tin rằng giả thuyết đặc biệt của mình có thể đúng, sẽ hướng sự tìm tòi của mình theo chiều huớng đó, không bị xao lãng bởi những dữ kiện không thích đáng khác.

Hai loại niềm tin trên đây phải được phân biệt rõ ràng. Loại niềm tin hoạt động trong Đạo Phật là loại dẫn đến trí tuệ, nói cho đúng là thứ yếu đối với trí tuệ. Niềm tin này thấy cả trong Phật Giáo lẫn Khoa Học.

Loại niềm tin này gồm ba chức năng quan trọng liên quan đến trí tuệ là:

1. Tạo mối quan tâm và động cơ thúc đẩy để tiến hành học tập.

2. Cung cấp nghị lực cần thiết nhằm theo đuổi việc học tập.

3. Đưa ra phương hướng, tức là trọng tâm cho nghị lực ấy.

Ngoài những chức năng trên, niềm tin được định hướng đúng cách có một số các đặc tính được nhận thấy trong hệ thống tu tập của người Phật Tử.:

Mục tiêu của Phật Giáo là gì? Mục tiêu của Phật Giáo là giải thoát, siêu việt, hay, nói theo ngôn ngữ đương đại, sự tự do. Phật Giáo muốn con người được tự do, vượt khỏi ô trược và khổ đau.

Làm sao có thể đạt được sự tự do này? Tự do đạt được nhờ trí tuệ, hiểu được chân lý, hay luật thiên nhiên. Chân lý đó có thể đạt được như nhau dù là Vị Đạo Sư hay đệ tử của Ngài và kiến thức của các đệ tử hoàn toàn độc lập. Có một lần, Đức Phật hỏi Ngài Xá Lợi Phất: "Thầy có tin những gì ta giảng cho Thầy nghe không?" Xá Lợi Phất trả lời: "Thưa Vâng, đệ tử nhận thấy điều đó như vậy" Đức Phật hỏi tiếp: "Có phải Thầy nói như vậy chỉ vì niềm tin nơi ta phải không?" "Không," đệ tử trả lời, "không phải chỉ vì Ngài là Đấng Thiêng Liêng, mà chính bản thân đệ tử thấy đúng là như thế".

Đây là một nguyên lý nữa trong Phật Giáo. Đức Phật không muốn các đệ tử của Ngài tin Ngài một cách đơn giản hay níu chặt lấy Ngài. Ngài vạch rõ sự thiếu sót của niềm tin, thậm chí niềm tin vào người khác vì Ngài muốn con người phải được hoàn toàn tự do. Giải thoát, hay tự do, mục tiêu của Phật Giáo đạt được bằng trí tuệ, bằng kiến thức hiểu biết sự thật.

Nhưng làm thế nào để trí tuệ phát sinh? Với những người biết suy nghĩ, những người mà ta gọi là biết nhận xét khôn ngoan (thiện tri thức), không cần phải dựa vào niềm tin, nhưng đa số phải sử dụng niềm tin làm bàn đạp hay điểm khởi đầu - Sự lưu ý có phương pháp, sự nhận xét khôn ngoan, sự phản chiếu để phê phán.

Những điều kiện này ràng buộc giống như mắt xích trong dây xích. Muốn đạt giải thoát, cần thiết phải phát triển trí tuệ. Trí tuệ là điều kiện thiết yếu biến mục tiêu thành hiện thực nhưng lại quay về tùy thuộc vào niềm tin. Điều đó cho chúng ta ba giai đoạn:

Niềm tin -- Trí Tuệ -- Giải thoát

Niềm tin là người khởi xướng con đường đi tới chân lý. Rồi dẫn đến trí tuệ, và tiếp theo dẫn đến giải thoát. Mô hình điều kiện này rõ ràng là hạn chế bớt niềm tin trong Phật Giáo. Vì niềm tin liên quan đến cả trí tuệ lẫn giải thoát nên có hai đặc tính sau:

1. Niềm tin dẫn đến trí tuệ

2. Niềm tin đi đôi với trí tuệ dẫn đến giải thoát.

Niềm tin trong Phật Giáo không cấm đoán hỏi han, thắc mắc hay nghi ngờ, cũng không đòi hỏi phải tin hay không được thắc mắc . Phật Giáo và Khoa Học cả hai đều có niềm tin như vậy; cả hai đều dùng niềm tin như bàn đạp trên con đường hiểu biết sự thật. Bây giờ câu hỏi được nêu lên, loại niềm tin nào là loại niềm tin dẫn đến trí tuệ?

Chúng ta có thể nói niềm tin dẫn đến trí tuệ là niềm tin vũ trụ này, hay theo qui luật tự nhiên vận hành theo định luật bất biến và không thay đổi. Đó là niềm tin vào Qui Luật Tự Nhiên, hay niềm tin Thiên Nhiên có những qui luật mà con người có thể hiểu được.

Niềm tin đó là sức đẩy dẫn đến việc tìm chân lý, vì niềm tin chính nó không thể dẫn thẳng đến chân lý, nó chỉ ứng dụng cho việc phát triển trí tuệ sau này. Trong giai đoạn này niềm tin của Phật Giáo và niềm tin của Khoa Học coi như rất tương đồng. Cả hai tin vào qui luật tự nhiên, và cả hai phấn đấu để biết sự thật của các qui luật này qua trí tuệ. Tuy nhiên, sự tương đồng chấm dứt ngay tại đây. Từ điểm này, niềm tin của Phật Giáo và niềm tin của Khoa Học đi theo con đường khác nhau.

Sự khác biệt giữa niềm tin trong Phật Giáo và Khoa Học

Chúng ta đã nói nguồn gốc của tôn giáo và Khoa Học là sự nhận thức khó khăn của đời sống, cái nguy hiểm đe dọa trong thế giới thiên nhiên. Trong việc nghiên cứu để đáp ứng với vấn đề, con người băn khoăn và lo lắng nhìn vào môi trường thiên nhiên. Hai cảm nghĩ này làm cả hai Phật Giáo và Khoa Học ham muốn tìm ra con đường thoát hiểm, và muốn biết sự thật về thiên nhiên. Từ một nguồn gốc chung, tôn giáo và khoa học tách ra đi theo đường lối của mình.

Ngoài phần khác biệt, cả hai đều có một sự tương đồng quan trọng, đó là khuynh hướng nhìn ra bên ngoài. Trên phương diện này, chúng ta thấy Khoa Học đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu hiện tượng tự nhiên bên ngoài. Khoa Học không bao gồm nhân loại trong khung cảnh vũ trụ. Nói một cách khác, Khoa Học không coi vũ trụ bao gồm cả nhân loại, và không nhìn nhân loại có tính cách bao trùm tất cả vũ trụ.

Nhìn thiên nhiên cách đó, Khoa Học chỉ có một đối tượng về niềm tin, đó là vũ trụ vật chất- niềm tin là vũ trụ đặt ra luật. Nói tóm lại chúng ta có thể gọi đó là 'niềm tin vào thiên nhiên'.

Nhưng mục tiêu của Phật Giáo là giải quyết vấn đề khổ đau cho nhân loại, phát xuất từ những điều kiện bên trong cũng như bên ngoài, nhấn mạnh vào thế giới hành vi của con người. Đồng thời, Phật Giáo thấy tiến trình đó là tiến trình tự nhiên. Vì lý do đó, Phật Giáo giống như Khoa Học, đặt niềm tin vào thiên nhiên, nhưng niềm tin này cũng gồm cả con người, có nghĩa là con người là một phần của thiên nhiên và cũng bao gồm tất cả thiên nhiên nơi con người, trong đó con người bị chi phối bởi luật thiên nhiên.

Niềm tin của Khoa Học chỉ có một đối tượng, và niềm tin của Phật Giáo có hai đối tượng là:

1. Thiên Nhiên

2. Nhân Loại

Trong một khía cạnh, hai loại niềm tin này là một, cùng là một thứ, vì cả hai đều tin vào thiên nhiên, loại thứ nhất thật rõ ràng. Nhưng loại này không bao gồm toàn bộ khung cảnh, chỉ bao gồm môi trường bên ngoài. Trong Phật Giáo, nhân loại được coi như một phần của thiên nhiên. Các bộ phận cơ thể con người cũng thiên nhiên như môi trường bên ngoài.

Hơn thế nữa, con người có một tính chất khác biệt hẳn với những biểu hiện bên ngoài của thiên nhiên và cũng phân biệt nhân loại khác với thế giới chung quanh mình. Đó là đặc tính riêng biệt của con người. Chúng ta có thể nói là "đặc tính của loài người ". Tính chất đặc biệt này là tinh thần của nhân loại, những giá trị - tiêu chuẩn đạo đức.

Trong Phật Giáo chúng ta tin rằng đặc tính trừu tượng của con người cũng chỉ là một hiện tưọng tự nhiên, cũng phải chịu ảnh hưởng của luật nhân quả tự nhiên, và cũng nằm trong chân lý thiên nhiên. Để biết và hiểu rõ tự nhiên, phải thông suốt tự nhiên cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất.

Nên nhớ rằng muốn biết và hiểu rõ tự nhiên, con người phải hiểu những điều họ đang nghiên cứu. Những đức tính tinh thần ấy như niềm tin, sự khao khát muốn biết, là những đặc tính trừu tượng, những điều mà chúng tôi gọi là 'giá trị'. Chúng đi vào địa hạt trừu tượng của con người, và với cương vị như thế, chúng nằm trong lãnh vực nghiên cứu và học hỏi của chúng ta.

Hơn nữa, ở mức độ tột cùng đạt được chân lý cũng là đạt được lòng thiện cao nhất. Cuối cùng, chân lý và đời sống tốt đẹp nhất, hay chân lý tối thượng và tâm thiện tối thượng cuối cùng chỉ là một, cùng như nhau. Nếu những đặc tính của con người không được nghiên cứu, không có kiến thức hay sự hiểu biết nào về thiên nhiên, chân lý sẽ bị bóp méo và không đầy đủ. Điều này sẽ không có khả năng dẫn đến sự hiểu biết thấu triệt sự thật chân lý.

Mặc dù Khoa Học tin tưởng vào thiên nhiên, cố gắng tìm hiểu sự thật về thiên nhiên nhưng lại không nhìn vào thiên nhiên trong tính toàn thể của nó. Khoa Học không lưu ý đến giá trị con người và kết quả là quan điểm không được đầy đủ và sai lầm về thiên nhiên. Sự nghiên cứu kiến thức của Khoa Học không đầy đủ, không đạt mức toàn hảo, vì đã quên lãng phần thiên nhiên trong con người.

Điều đáng chú ý là niềm tin của Khoa Học, giống như Phật Giáo, cũng có ý kiến đề nghị chia thành hai hướng. Đó là niềm tin vào qui luật tự nhiên, thứ hai là tin vào khả năng thông minh của con người. Chúng ta hãy thử nhìn vào niềm tin của Khoa Học, nói cho đúng niềm tin này đoan quyết thiên nhiên có những định luật không thay đổi, với trí thông minh con người có thể tìm thấy sự thật trong thiên nhiên.

Niềm tin của Khoa Học có thể chia thành hai phương diện, và có hai đối tượng, giống như niềm tin của Phật Giáo. Trước nhất là niềm tin vào định luật thiên nhiên, sau là tin vào khả năng trí thông minh con người có thể hiểu được những qui luật ấy hay đơn giản là tin vào tiềm năng con người. Tuy nhiên phương diện thứ hai không thấy được nói rõ trong Khoa Học mà chỉ là một sự thừa nhận. Khoa Học không đề cập đến niềm tin về phương diện thứ hai, quan tâm rất ít đến việc phát triển tiềm lực của con người. Khoa Học chỉ tập trung vào việc phụng sự niềm tin ở phương diện thứ nhất.

Ở phương diện này, Khoa Học khác biệt với Phật Giáo, Phật Giáo tin con người là quan trọng nhất, triển khai vấn đề này vào các hình thức tu tập có hệ thống trong phần lớn giáo lý Phật Giáo. Qua toàn bộ giáo lý, niềm tin lúc nào cũng liên hệ giữa ba điểm. Đó là, sự vững tin vào tiềm năng của con người có thể phát triển trí tuệ và hiểu rõ sự thật về các qui luật tự nhiên, niềm tin này được hỗ trợ bởi sự tin chắc đã ăn sâu là thiên nhiên vận hành theo qui luật, và có sự tin chắc rằng nhận thức được qui luật tự nhiên ấy làm cho con người có thể hiểu biết được điều thiện cao nhất tức sự giải thoát khỏi khổ đau.

Loại niềm tin đó tạo thành sự khác biệt rõ ràng giữa Phật Giáo và Khoa Học. Trong Phật Giáo việc tìm chân lý song song với sự tu tập để thực hành và biến tiềm năng con người thành hiện thực. Điều này sẽ là đúng nếu sử dụng kiến thức có được từ việc nghiên cứu qui luật tự nhiên để phục vụ ảnh hưởng phá hoại của tham, sân và si thì khả năng sử dụng kiến thức bị giảm thiểu. Kiến thức đạt được sẽ hữu dụng trong tinh thần xây dựng.

Về phần Khoa Học, niềm tin lệch lạc về qui luật tự nhiên chính là nguyên nhân dẫn đến một cu?c tìm kiếm kiến thức không có mục tiêu và vô kỷ luật. Không có sự phát triển nào của loài người và cũng không có sự bảo đảm nào rằng kiến thức đạt được sẽ được sử dụng chỉ đem lợi ích cho nhân loại. Khoa Học nghiên cứu các chân lý tự nhiên đã không giúp đỡ được ai, ngay cả những Khoa Học Gia, mãn nguyện, giải thoát khổ đau, làm dịu căng thẳng tinh thần, làm cho tâm đựợc an tịnh và sáng suốt hơn. Đồng thời Khoa Học mở rộng con đường cho những giá trị bất thiện hướng việc phát triển Khoa Học đến tham sân si. Thí dụ trong thế kỷ vừa qua những giá trị bất thiện ấy là dục vọng chiếm đoạt thiên nhiên và chủ nghĩa vật chất gây ra sự bóc lột và phá hoại môi sinh. Nếu cứ phát triển Khoa Học theo khuynh hướng đó, sẽ không còn biện pháp cứu chữa.

Phải nhấn mạnh loài người là sinh vật thông minh, hay thẳng thắn hơn là những chúng sinh có chủ tâm. Họ là những chúng sinh tạo nghiệp, và tất cả các loại nghiệp đều do ý muốn làm ra. Vì lý do đó, con người có ý thức về các giá trị - tiêu chuẩn đạo đức. Căn cứ vào chỗ họ có niềm tin vào qui luật tự nhiên và sự ham thích muốn biết các qui luật ấy, họ phải biết các giá trị, có ý thức hay không có ý thức. Đặc tính này sẽ quyết định cách thức, phương hướng và phương pháp để tìm sự thật - chân lý, cũng như bối cảnh và đường lối để thấy được sự thật - chân lý.

Nếu ý thức về các giá trị của loài người, không xâm phạm vào đức tính hòa hợp căn bản ở trong tâm, nói một cách khác, nhân loại không phát triển điều thiện tối thượng song song với việc tìm kiếm chân lý tự nhiên, sự tìm kiếm không thể hoàn toàn thành công (vì không lưu ý đến khía cạnh khác của sự thật), vì bị tràn ngập bởi những giá trị thấp kém, và không thể kiểm soát nổi, dễ bị sai hướng. Những giá trị thấp kém ảnh hưởng đến việc tìm kiếm kiến thức, bóp méo sự thật đã được khám phá.

Nói một cách đơn giản, kiến thức của Khoa Học gia không tách rời các giá trị. Một thí dụ dễ hiểu về một trong những giá trị thấp kém là sự thích thú nấp đằng sau việc tìm kiếm kiến thức cùng với những khám phá. Dù là kiểu tìm kiếm kiến thức thuần túy, có giá trị tốt đẹp hơn, nếu phân tách sâu xa, cũng có những giá trị ẩn dấu bên trong như sự ham thích muốn thỏa mãn một số nhu cầu cá nhân, thậm chí cảm giác thích thú, ngay trong người nghiên cứu.

Tôi muốn tóm tắt tại điểm này về hai mức độ giá trị, giá trị cao nhất cùng với những giá trị trung gian có thể cùng tồn tai. Giá trị cao nhất là chân lý phải đạt cho được, không phải là loại mà nhân loại tạo lập trong tâm trí. Ngay từ lúc đầu các nhà Khoa Học đã có niềm tin vào thiên nhiên. Sự tin chắc này đã có một giá trị ngay trong lòng dạ họ từ lúc bắt đầu, nhưng niềm tin này phải mở rộng gồm cả thiên nhiên và nhân loại, đòi hỏi phải tin vào điều thiện tối thuợng, đơn giản bằng cách ghi nhớ rằng các qui luật tự nhiên gắn liền với điều thiện tối thượng.

Khi có một giá trị đúng về niềm tin, giá trị phụ thuộc sẽ phát sinh; nghĩa là những giá trị ấy sẽ được tăng cường bởi sự khích lệ có chủ tâm ở ngay trong chính nó. Do đó có thể ngăn chặn giá trị đi lạc vào các khu vực bất thiện, nghĩa là không bị các giá trị thấp kém xâm chiếm.

Niềm tin là giá trị căn bản của chúng ta, tạo ra các giá trị phụ thuộc, đặc biệt là về hoài bão muốn biết. Từ niềm tin vào chân lý tự nhiên phát sinh lòng khao khát muốn biết chân lý tự nhiên, hay sự thật của mọi sự vật. Hoài bão như vậy rất quan trọng cho cả Khoa Học lẫn Phật Giáo.

Từ niềm tin vào sự hiện hữu của điều thiện tối thượng và tiềm năng con người đã nảy sinh lòng mong muốn thoát khỏi khổ đau, vượt qua các khó khăn và theo đuổi sự phát triển cá nhân.

Loại khát vọng đầu tiên là lòng ham thích muốn biết chân lý tự nhiên. Loại khát vọng thứ hai là lòng ham được giải thoát khỏi khổ đau. Khi hai khát vọng này hợp nhất, lòng ham thích kiến thức được xác định và định hướng rõ ràng hơn. Nó trở thành sự ham thích muốn biết chân lý tự nhiên để giải quyết những trở ngại khó khăn và hướng dẫn con người đến giải thoát. Đó là sự viên mãn của Phật Giáo. Khi hai loại khát vọng ấy hợp nhất, chúng ta có một chu trình được hoàn thành, cân đối, đầy đủ toàn vẹn. Có một ranh giới rõ ràng cho khát vọng về kiến thức được sử dụng cho mục đích rõ rệt là tạo ra chất lượng cuộc sống cho đời. Nói tóm lại, khát vọng kiến thức của chúng ta liên quan thực sự đến con người, vạch ra con đuờng mà kiến thức sẽ được sử dụng.

Với Khoa Học, nguyên thủy chỉ là cái khát vọng về kiến thức. Khi khát vọng về kiến thức không có mục tiêu và không được định hướng thì kết quả là sự thâu thập bừa bãi các dữ kiện, cố gắng tìm hiểu sự thật ẩn tàng đằng sau thiên nhiên bằng cách tìm kiếm càng ngày càng hướng ra bên ngoài, một sự thật vì lợi ích của riêng mình. Trong khi sự nghiên cứu Khoa Học để tìm ra chân lý không có phương hướng thì con người lại bị lôi cuốn bởi giá trị. Vì khát vọng về kiến thức không được minh định rõ ràng, nó mở rộng cho các khát vọng khác, tức các giá trị thấp kém để lấp đầy vào chỗ trống. Tôi đã đề cập tới một số mục tiêu xa vời, như khát vọng chinh phục thiên nhiên, và sau đó, sự ham muốn sản xuất nhiều của cải vật chất. Hai loại khát vọng này tạo thành một loại chu trình khác biệt.

Tôi muốn nhắc lại ý nghĩa của chu trình trên; đó là khát vọng muốn biết những sự thật- chân lý tự nhiên để khai thác nhằm sản xuất của cải vật chất. Chu trình là nguyên nhân của vô số các khó khăn trong hiện tại: tinh thần, xã hội, và đặc biệt như chúng ta hiện thấy vấn đề môi trường.

Đó là vì tư tưởng của thời đại kỹ nghệ đã lợi dụng kẽ hở Khoa Học, một khát vọng mơ hồ không xác định rõ ràng về kiến thức, đó là hành động của con người được thực hiện bất kể đến nhân loại. Hiện tại, chúng ta đang nếm mùi hậu quả tai hại của kẽ hở đó: những vấn đề của môi trường, và ở đâu đó phát sinh từ niềm tin là con người chế ngự được thiên nhiên rồi bám chặt chủ nghĩa vật chất.

Tư tưởng trên gây ra khuynh hướng thái quá trong việc làm của con người. Không có ranh giới ấn định trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Việc làm tìm kiếm hạnh phúc là vô tận, sự phá hủy thiên nhiên cũng vô tận. Những khó khăn nhất định phát sinh. Đó là chỗ rẽ của Phật Giáo và Khoa Học.

Nếu lý giải xa hơn, chúng ta sẽ thấy kẽ hở mà Khoa Học không hướng tới vì chỉ chú trọng vào thế giới vật chất bên ngoài. Khoa Học không nghiên cứu kiến thức thuộc phạm vi cá nhân con người.

Khoa Học không chú ý đến, thực ra là không hiểu bản chất tự nhiên con người, và kết quả Khoa Học đã trở thành công cụ cho kỹ nghệ mà những bước tiến ích kỷ của nó đã xâm hại môi trường tự nhiên. Không hiểu biết bản chất tự nhiên của con người là không hiểu biết thực tế rằng có làm cho năm giác quan thỏa mãn cũng không làm cho nhân loại hạnh phúc và mãn nguyện. Tham dục vô đáy, nên sự tìm kiếm của cải vật chất cũng vô tận. Nhiều của cải vật chất đạt được qua việc khai thác thiên nhiên đưa đến sự thao túng thiên nhiên vô hạn độ và không có sự kiểm soát. Cuối cùng, thiên nhiên sẽ không thể thỏa mãn được tham dục của con người. Cả đến khi đã phá hủy hoàn toàn thiên nhiên, cũng không thể thỏa mãn hết tham dục của con người. Phải nói chính xác hơn là sự phá hoại thiên nhiên tự nó sẽ làm con người khốn khổ hơn là hạnh phúc.

Con người hay cái tôi là trọng tâm

Tôi vừa đề cập đến một số điểm căn bản chung trong Phật Giáo và Khoa Học, cả lãnh vực niềm tin lẫn khát vọng kiến thức. Bây giờ tôi muốn nói đến đối tượng của niềm tin và khát vọng kiến thức. Đối tượng đó là sự thật hay còn gọi là chân lý. Khát vọng và niềm tin của chúng ta bắt nguồn từ gốc rễ sự ham thích sự thật và kiến thức. Khi tiến tới được phần cốt lõi của vấn đề, đó là kiến thức hay chân lý, khát vọng của chúng ta thỏa mãn. Điều này có nghĩa là nhân loại phải hiểu chân lý của các qui luật tự nhiên.

Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa là trong Phật Giáo mục tiêu của chúng ta là sử dụng kiến thức về chân lý để nâng cao đời sống con người, và giải quyết khó khăn, hầu đạt được một cuộc sống hoàn toàn tự do. Mặt khác, mục đích của Khoa Học là sử dụng kiến thức để chinh phục thiên nhiên hầu sản xuất nhiều của cải vật chất. Điều này có lẽ hết sức rõ ràng trong lời tuyên bố của René Descartes, một học giả nổi tiếng có địa vị quan trọng nói về việc phát triển Khoa Học và triết lý Tây Phương. Ông viết mục tiêu của Khoa Học là một phần trong việc đấu tranh: "làm cho chúng ta thành chủ nhân ông và sở hữu chủ thiên nhiên".

Có mục tiêu khác thì đối tượng của kiến thức cũng phải khác. Đối tượng kiến thức trong Phật Giáo là gì? Đối tượng chính mà chúng ta nghiên cứu là bản chất con người. Con người là đối tượng của kiến thức, và từ đó, sự nghiên cứu của chúng ta trải rộng bao gồm mọi sự vật bên ngoài. Nhân loại lúc nào cũng là đối tượng, là trung tâm điểm để từ đó chúng ta nghiên cứu chân lý của thiên nhiên.

Trong Khoa Học, mặt khác, đối tượng của sự nghiên cứu là môi trường vật chất bên ngoài. Ngay khi Khoa Học nhìn vào con người cũng chỉ coi con người như một tổ chức vật chất khác trong phạm vi vũ trụ vật chất. Như vậy, Khoa Học không nghiên cứu về đời sống. Khoa Học nghiên cứu đời sống con người, nhưng chỉ có mục đích sinh học, không nghiên cứu về 'con người' hay 'tính người'.

Lãnh vực nghiên cứu về kiến thức của Phật Giáo là con người, trong khi lãnh vực của Khoa Học là thế giới bên ngoài. Lấy điểm này làm căn bản, chúng ta hãy nhìn vào những lãnh vực thiên nhiên mà Khoa Học nghiên cứu và Phật Giáo tìm hiểu.

Phật Giáo tin tưởng con người là sự tiến hóa tối cao của thiên nhiên.Vì lý do này, nhân loại là hình ảnh bao trùm đầy đủ chân lý trong chính con người, tức là cơ thể con người chứa đựng thiên nhiên, cả bình diện tinh thần lẫn vật chất. Trên bình diện vật chất chúng ta có cơ thể, tạo thành bởi các yếu tố (đất, nước, gió, lửa) liên hệ đến thế giới vật chất bên ngoài. Tuy nhiên, thế giới vật chất không bao gồm giá trị, hay tâm thức. Vì thế khi nghiên cứu con người, ta có thể biết được sự thật về tất cả mọi khía cạnh của chân lý tự nhiên gồm cả mặt nổi vật chất lẫn mặt chìm trừu tượng.

Khoa Học nghiên cứu thiên nhiên chỉ trên bình diện vật chất, trên thế giới vật chất và năng lượng, không chú ý và cũng không công nhận nhân tố tâm trí, ý thức nghĩa là tinh thần. Khoa Học nghiên cứu từ bên ngoài vào. Tiến tới cơ thể con người, Khoa Học chỉ nghiên cứu "đời sống" mà không nghiên cứu con người. Khoa Học chỉ biết những sự việc thực tế của thế giới vật chất mà không biết bản chất con người hay bản tính của con người.

Từ trước tôi chỉ nói đến những nguyên tắc căn bản. Giờ đây, xin có một số nhận xét chung:

Vừa rồi, tôi nói Phật Giáo đặt nhân loại vào trung tâm điểm, loài người là trọng tâm. Mục đích rõ rệt này là để hiểu rõ và phát triển con người. Khoa Học, mặt khác, chỉ chú trọng đến thế giới bên ngoài.

Khoa Học chỉ tìm hiểu sự thật của các vấn đề bên ngoài con người.

Sau nhiều năm, Khoa Học đưa ý đồ chinh phục thiên nhiên vào phương châm hành động của nó, một lần nữa Khoa Học đặt để con người vào vị trí trọng tâm, nhưng trong một đường lối khác hẳn Phật Giáo. Phật Giáo cho con người là trọng tâm trong ý nghĩa xác nhận trách nhiệm của mình. Phật Giáo nhấn mạnh bổn phận của con người đối với thiên nhiên. Phật Giáo đặt con người vào trọng tâm vì con người phải tự mình phát triển, tìm cách vượt qua các khó khăn. Đó là cái thực sự lợi ích khiến cho con người đạt giải thoát, điều thiện tối thượng và thoát khỏi khổ đau.

Khoa Học đưa quan điểm ham muốn chinh phục thiên nhiên vào khát vọng của nó, cũng lại đặt con người vào trọng tâm nhưng chỉ để khai thác thiên nhiên. Con người nói "Tôi muốn cái này", từ điểm này con người tiến hành thao túng thiên nhiên để đáp ứng cho lòng tham dục của mình. Nói một cách đơn giản, Khoa Học đặt con nguời vào trọng tâm với mục đích thỏa mãn tính vị kỷ của mình.

Trong mối tương quan với đối tượng nghiên cứu, Phật Giáo đặt con người vào trọng tâm. Con người trở thành sự thật phải được nghiên cứu hầu có thể mở mang hữu hiệu tiềm năng sẵn có. Riêng Khoa Học, ngay lúc bắt đầu, cũng là để tìm hiểu sự thật, nhưng hướng sự quan tâm chỉ vào thế giới vật chất. Rồi Khoa Học đặt con người vào trọng tâm như một tác nhân sử dụng những vật dụng vật chất ấy để thỏa mãn tham dục của mình. Phật Giáo và Khoa Học cả hai đều lấy thuyết con người là trọng tâm nhưng sự khác biệt là trong khi Phật Giáo lấy con người làm trọng tâm thì Khoa Học lấy cái tôi làm trọng tâm.

Điều nhận xét thứ hai mà chúng tôi muốn nêu lên liên quan đến Khoa Học Thuần Túy: Khoa Học thuần túy hay không thuần túy?

Thuật ngữ "Khoa Học Thuần Túy", gọi thế vì nó được coi là 'Khoa Học và chỉ là Khoa Học', nghĩa là kiến thức thuần túy không mảy may quan tâm đến ứng dụng, được dùng để phân biệt với Khoa Học Ứng Dụng hay Kỹ Thuật. Nhưng ngày nay Khoa Học không còn thuần túy. Trong ý nghĩa Khoa Học thuần túy có ham muốn tương đối thuần túy nhằm nghiên cứu qui luật thiên nhiên, có thể gọi là thuần túy, nhưng khi những giá trị khác xâm nhập vào việc nghiên cứu, nó trở nên không thuần túy.-