Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

NIÊM HOA VI TIẾU

(Nhón Tay Nhặt Hoa,

Hội Ý Mỉm Cười)

 

LÂM THANH HUYỀN

PHẠM HUÊ dịch

 

Giữa lúc nhặt hoa mỉm cười đó,

Vô tình đã chọn được tông phong,

Bảo rằng tâm nhãn đồng thời chứng,

Lơ lửng như đang giữa giấc nồng. (1)

Bạch Vân Thủ Đoan Thiền Sư (2).

 

Hai ngàn năm trăm năm trước.  Thiền đã xuất phát từ một huyền thoại đẹp và thơ mộng.  Vẻ đẹp đó nhẹ nhàng như khói như sương, kinh điển đại thừa đã ghi lại giai thoại này như sau:

Trong đại hội Linh Sơn, trước mặt tất cả môn đồ và tín hữu, Đức Thế Tôn (Phật Thích Ca Mâu Ni) đã nhón tay nhặt lấy một cành hoa đưa lên cho mọi người cùng xem.  Lúc đó ai nấy đều im lặng vì không hiểu Đức Phật muốn ngụ ý gì.  Chỉ thấy Tôn Giả Ca Diếp (3) chúm chím miệng cười.  Thế Tôn bèn nói rằng: “Ta có chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, đều giao phó lại cho Ma Ha Ca Diếp.” (4)

Đức Phật chỉ vỏn vẹn truyền lại mấy câu trên, thế nhưng lời nói của người đã khiến cho chúng ta có những sự liên tưởng rất đẹp.  Bắt đầu của Thiền chỉ có bấy nhiêu, ngoài những lời nói này thì Thế Tôn không giao lại cho Ca Diếp một tín vật nào khác cả. 

Cứ mỗi lần nghĩ đến sự bắt đầu của Thiền, tôi bất chợt có một sự ao ước như muốn nhón tay nhặt lấy một cành hoa, như muốn hội ý mỉm một nụ cười mà trong lòng xen lẫn một chút gì như hoan hỉ, như mừng vui.  Mãi cho đến một hôm nọ khi đang thưởng thức hương vị đậm đà của chung trà nóng, tôi đột nhiên nhóm lên ý nghĩ: “Lúc Đức Phật Thích Ca nhón tay nhặt lấy cành hoa may mắn và Tôn Giả Ca Diếp động tâm mỉm cười.  Nếu như lúc đó trên đại hội Linh Sơn không có một ai hội ý cùng Thế Tôn thì phải chăng cho đến ngày hôm nay thế giới của chúng ta đã không có chữ Thiền, nghĩa Thiền hay ý Thiền? Lại nữa, nếu như lúc đó Tôn Giả Ca Diếp đang lơ đãng nhìn quanh không kịp mỉm cười, hoặc là trong đại hội Linh Sơn mọi người đang nói cười ầm ỹ không ai đế ý đến động tác nhón tay nhặt hoa của Đức Phật thì có lẽ thế gian này đã không có duyên với Thiền rồi vậy”.

Vì vậy bốn chữ niêm hoa vi tiếu có một ý nghĩa thật hoàn mỹ.  Động tác nhón tay lấy cành hoa của Đức Phật nhẹ nhàng thanh thoát mà nụ cười mỉm hội ý của Tôn Giả Ca Diếp cũng có một vẻ thanh tịnh và ý nhị vô cùng.  Hai động tác này hình như đã được phối hợp nhịp nhàng và biểu hiện cho một sự trang nghiêm nhưng ôn hòa.

Niêm hoa vi tiếu khiến cho tôi nghĩ rằng Đức Phật đã có ý niệm muốn nhón tay nhặt lấy cành hoa đưa ra mà Tôn Giả Ca Diếp cũng đã chuẩn bị sẵn một nụ cười để chào đón.  Trong khoản không gian và thời gian thích hợp như vậy nên Thiền có một vẻ đẹp rất nên thơ.

Bây giờ Đức Phật đã rời khỏi thế gian, trên thế giới của con người còn lại vô số chúng sinh, núi rừng, cây cỏ.  Nếu đúng như lời Phật dạy là núi rừng cây cỏ, lục đạo chúng sinh và Như Lai là một thể duy nhất thì biết đâu cây cỏ núi rừng và tất cả chúng sinh trên đời lúc nào hình như cũng đang nhón tay nhặt lấy cành hoa đưa ra chào đón, mà chúng ta lại không biết chọn đúng thời điểm thích hợp để nhoẻn một nụ cười đáp lại mà thôi.

Tôi nghĩ rằng, khi một người bước vào thế giới của Thiền thì họ nên chuẩn bị sẵn một nụ cười.  Nụ cười này sẽ là sự hội ý của mọi sinh hoạt.  Thiền không mang một thái độ miễn cưỡng ép buộc con người vào một khuôn khổ nhất định mà lại vạch ra một con đường giúp ta bước vào một trạng thái tự nhiên trong đời sống.  Khi chúng ta đã ở vào một trạng thái yên lành ổn định và trong phút giây chờ đợi sự khai ngộ của tâm và tánh, trái tim của ta như một đóa hoa đang tập trung tất cả sức lực để chờ đợi ngọn gió xuân vừa thổi vào là bùng lên nở rộ. 

Thiền có một đặc tính gọi là trực quán khai ngộ.  Đó là tính chất bộc phát nhất thời mà không cần phải suy luận từ tri thức.  Trí tuệ của Thiền có những sự khác biệt với những tri thức thông thường.  Tri thức sử dụng rất nhiều ý thức để nhận xét sự việc, điều này thường làm cho bản thể của vũ trụ bị chia cắt ra thành nhiều mảnh vụn.  Trí tuệ của Thiền ngược lại rất chủ quan.  Kẻ Thiền thường đặt tâm và nhãn quan trong một trạng thái thống nhất.

Lấy thí dụ của một cành hoa, nếu như một người không hội ý để ngắm hoa, thì khi ngắm, họ chỉ biết phân biệt đó là cành hoa hồng màu đỏ, đóa hoa mai màu vàng, hoặc họ có nhận thức là sẽ cắm cành hoa vào nơi nào để cho nổi bật khung cảnh chung quanh, hoặc dùng cành hoa vào mục đích tặng cho một người thân thương nào đó.  Ta là chủ, hoa là khách.  Thế nhưng tri thức này rất khó mà nhận biết được sự thương tiếc và đối xử một cành hoa như thế nào cho hợp lý.  Chúng ta thường hay hành xử những chuyện trên đời với một lý tính khách quan, bây giờ chúng ta hãy chuyển ngược thái độ để nhìn mọi sự việc với một phong cách cảm tình chủ quan.  Hãy xem chính bản thân ta là hoa, hoa chính là ta, sự tồn tại của ta trên thế gian cũng giống như một đóa hoa đang đà nở rộ, khi ta rời khỏi thế gian cũng đồng nghĩa như một cành hoa đang từ từ héo úa.  Nói một cách khác thì sự tồn tại của chúng ta trên thế gian chỉ là biểu tượng của sinh mạng trong một khảng thời gian giới hạn, những nhận thức này có thể dùng để giải thích ý nghĩa chân thật của cuộc sống.  Nếu như được vậy thì có thể nói là ta đang dùng trí tuệ để ngắm hoa.

Trong tương quan giữa những sự việc, thì sự gặp gỡ của hai(hoặc nhiều) cá nhân trong cuộc sống chính là một duyên phần, phúc phần ngàn năm.  Nếu như chúng ta dùng một thái độ chủ quan, có cảm tình như trạng thái ngắm hoa vừa kể thì sự hội ý giữa con người và con người chắc chắn sẽ dễ dàng đưa đến chỗ cảm thông.

Dưới đây là một mẩu chuyện của Thiền về thời gian tính:

Một người nọ đang đi trên đường, bỗng anh ta nghe văng vẳng có tiếng than khóc nên lần bước đi về hướng đó thì phát giác ra đó là tiếng khóc của một con ve sầu, giống côn trùng mà cuộc sống của chúng vỏn vẹn chỉ có một ngày trên dương thế.

Anh ta lên tiếng hỏi con ve:

-Tại sao người lại khóc than thảm thiết như vậy?

Con xe sụt sùi trả lời:

-Vợ tôi vừa mới qua đời nên tôi buồn khổ.  Không biết rồi nửa cuộc đời cô độc dài đăng đẳng còn lại của tôi sẽ phải trải qua như thế nào đây?

Người lữ khách ngước nhìn lên không trung thì thấy mặt trời lúc đó đã chênh chếch qua khỏi đỉnh đầu, anh ta bật cười nghĩ thầm:

-Bây giờ cũng đã quá giữa trưa, cuộc sống của chú ve này vỏn vẹn chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa, thế mà nó lại than khóc cho sự cô đơn dài đăng đẳng của nửa cuộc đời còn lại, nghĩ đáng tức cười chưa.

Vừa nghĩ đến đây, bỗng dưng anh ta chợt ngộ ra rằng “Loài ve sầu có cuộc sống ngắn ngủi chỉ một ngày trên đời, thế thì mấy tiếng đồng hồ chẳng phải là nửa cuộc đời của chúng hay sao?  Như vậy khi loài ve sầu than khóc vì còn đến 4, 5 tiếng đồng hồ phải trải qua cuộc sống lẻ loi cô độc thực ra cùng có thể so sánh với nửa cuộc đời bốn hay năm mươi năm của con người trên cái cảm giác tương đối.  Mấy tiếng đồng hồ đó cũng có nghĩa dài như hàng chục năm của nửa cuộc đời người.  Thế nhưng trên thực tế thì tại sao ta lại thấy khoảnh khắc này ngắn ngủi quá như vậy?”

Lai Quả Thiền Sư là một vị cao tăng trong giai đoạn đầu thế kỷ 20.  Một hôm trong giờ thiền định, ông chợt nghe văng vẳng có tiếng thở than, ông bước xuống giường lần theo tiếng rên rỉ thì phát giác có một con rận từ trên giường nhảy xuống đất gãy mất một chân.  Con vật lăn lộn dưới đất tỏ vẻ đau đớn vô cùng.  Lúc đó đại sư mới biết rằng giống con trùng này cũng có những cảm giác đau đớn, hỉ, nộ y hệt như con người.  Do đó, nếu như loài người chỉ nhận lấy sinh mạng để làm biểu tượng mà cuộc sống của ta chỉ bám víu vào mục đích gì thì chúng ta nào có khác gì mấy con chấy, con rận hay loài ve sầu đâu?

Trong sinh hoạt hằng ngày, tất cả mọi sự việc là hiện thực, là hiển hiện trước mắt của chúng ta.  Nhưng đáng buồn là tất cả mọi sự việc trên đời đều là danh mục, đều bị chúng ta đặt để cho nhiều danh tướng.  Nếu như ta có thể chuyển mọi sự việc thành chân diện mục, thì cái tâm Thiền sẽ dễ dàng hiện rõ ra ngay trước mắt. 

Có một người nọ đã hỏi Pháp Nhãn Văn Ích Thiền Sư:

-Thưa ngài, con người phải bộc lộ cá tính của họ như thế nào mới có thể phù hợp với đạo?

Pháp Nhãn Thiền Sư hỏi ngược lại:

-Một khi con người bộc lộ cá tính của họ ra, thì có chỗ nào mà không hợp với đạo đâu?

Thông thường, khi ta đối diện với mọi cảnh trí, ta thường phát hiện hai tình huống khác nhau: Có thể chúng ta thờ ơ với cảnh giới chung quanh, điều này sẽ khiến tâm tư của ta trở thành “vô cảm”; cũng có thể ta sẽ luôn luôn “hợp tướng” (hợp với ngoại tướng) đến nỗi trái tim sẽ chịu ảnh hưởng do sự biến thiên của cảnh giới này.  Hay hơn hết là chúng ta nên duy trì sẵn một nụ cười hội ý, hợp cùng trực quán đồng thời của ánh mắt và trái tim để từ đó có thể siêu việt khỏi phong cách của cảm giác.  Trong sự hội tâm của sinh hoạt, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị một nụ cười.  Điều này sẽ khiến cho ý thức của chúng ta được tự tại mà đặt trong một tình trạng sáng sủa.  Trái tim của ta lúc đó sẽ ở một trạng thái thanh tịnh, tất cả mọi chuẩn bị cho việc khai ngộ đã sẵn sàng, chỉ cón chờ đợi phút giây mà tia sáng bùng lên mà thôi.

Với cánh cung và mũi tên trong tay, khi mũi tên chưa rời khỏi dây cung mà người xạ thủ đã thấy được cảnh tượng con chim nhạn vướng tên là đà rơi xuống đất, đó chính là cảnh giới của một thần tiễn thủ.

Nhắm đôi mắt lại trong một đêm chuyển mưa, có mây đen giăng kín bầu trời mà biết vầng trăng sáng vẫn còn hiện hữu trên trời cao sẵn sàng tỏa ra ánh sáng sau cơn mưa, đó chính là cảnh giới của người sáng mắt.

Pháp Nhãn Đại Sư đã nói: “Nhìn vạn pháp không dùng mắt thịt mà phải dùng đôi mắt trí tuệ của chân như.  Cặp mắt đó chính là mắt pháp, mắt đạo.  Khi mắt đạo không nhìn thấu suốt, có nghĩa là trái tim của ta đã bị mắt thịt che lấp”.

Điều này đã ngụ ý cho rằng những vị thiền sư chính là những thần tiễn thủ có tâm nhã hợp nhất, hoặc chính là những người mắt sáng có thể thấu suốt và hội nhập được ánh mắt vào quả tim.

Vậy thì các bạn của tôi, khi nhón tay nhặt lấy cành hoa, hãy mỉm một nụ cười.  Lúc chưa nhặt lấy cành hoa, hãy chuẩn bị một nụ cười đi.

 

CHÚ THÍCH:

1. Nguyên tác:

Tân thuyết niêm hoa vị tiếu thị,

Bất tri tương để biện tông phong,

Nhược ngôn tâm nhãn đồng thời chứng,

Vị miễn mông lung tại mộng trung.

2. Bạch Vân Thủ Đoan Thiền Sư: những vị thiền sư ngày xưa thường dùng danh hiệu ghép lại giữa địa danh nơi họ tu hành và đạo hiệu của họ.  Bạch Vân là địa danh, có thể tên của một ngôi chùa, tông phái, còn Thủ Đoan là đại hiệu.

3. Tôn Giả Ca Diếp: có sách còn dịch là Già Diệp.  Ma Ha Ca Diếp lại đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Ông đã được Đức Phật truyền lại tâm ấn về Thiền, vì vậy Phật Giáo Thiền Tông tôn xưng tụng ông làm Sơ Tổ.

4.  “Chính Pháp Nhãn Tạng...”: lời dạy của Đức Phật Thích Ca trước khi người nhập diệt đã giao lại cho Ma Ha Ca Diếp gầy dựng tông phong của Thiền.  Vì muốn trung thực với nguyên tác, người dịch không đưa lời giải thích trong bài này.  Xin tham khảo ý của lời dạy này trong quyển Đóa Hoa Sen Trên Đỉnh Linh Sơn của cùng tác giả và người dịch.