Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

CÁC CHIỀU HƯỚNG

CỦA TÂM LINH

 

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

PHƯƠNG DUNG chuyển ngữ

 

Mục đích căn bản của con người là làm thế nào có được một cuộc sống hạnh phúc; vì tất cả chúng ta đều mong muốn hạnh phúc. Đi tìm hạnh phúc là một điều rất tự nhiên của tất cả mọi người. Đó là mục đích của cuộc sống. Lý do thật là rõ ràng. Khi chúng ta mất hy vọng, thì tinh thần của chúng ta trở nên chán nản và đôi khi còn muốn tự tìm cái chết nữa. Vì lẽ đó, sự hiện hữu của chúng ta bắt nguồn từ sự hy vọng. Mặc dầu không có gì bảo đảm chắc chắn là tương lai sẽ đem lại những điều vui, nhưng chúng ta vẫn sống được bởi vì chúng ta có hy vọng. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng mục đích của cuộc sống và hướng đi của chúng ta là hạnh phúc.

Con người không phải được chế tạo từ máy móc. Vì vậy, chúng ta có ý nghĩa nhiều hơn là vật chất, vì chúng ta có cảm xúc và kinh nghiệm. Bởi thế, sự thoải mái về vật chất không thôi cũng chưa đủ. Chúng ta cần những gì sâu xa hơn, những gì mà Đức Đạt Lai Lạt Ma thường hay nói đến là tình nhân loại, hay từ bi. Với tình loại, hay từ bi, tất cả những thuận lợi về vật chất mà chúng ta tạm có, có thể đóng góp tích cực và mang lại kết quả lành. Tuy nhiên, không có tình nhân loại, sự thuận lợi về vật chất không thôi sẽ không làm chúng ta hài lòng, và cũng không mang lại cho chúng ta một chút bình an nơi tâm hồn hay hạnh phúc. Thật ra, sự thuận lợi về vật chất mà không có lòng nhân ái thì có thể tạo ra thêm khó khăn cho chúng ta. Vì vậy lòng nhân ái hay từ bi, là chìa khóa để đi tới hạnh phúc của con người.

 

CÁC TÔN CIÁO CỦA THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI

Chiều hướng thứ nhất của tâm linh đối với con người ở khắp mọi nơi, là đức tin vào một trong nhiều tôn giáo của thế giới. Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng mỗi tôn giáo chính trên thế giới đều đóng một vai trò quan trọng, nhưng để các tôn giáo đó có thể đóng góp hữu ích vào lợi ích của con người về mặt tôn giáo, có hai yếu tố quan trọng cần cân nhắc kỹ.

Yếu tố thứ nhất theo Ngài chính là cá nhân từng người thực hành các tôn giáo đó là, chính mỗi người chúng ta phải thực hành một cách thành thực. Những lời chỉ dạy trong tôn giáo phải là một phần gắn liền với cuộc sống của chúng ta và chúng cũng không nên tách rời ra khỏi cuộc sống của chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta đến nhà thờ hay vào chùa để cầu nguyện hay phát sinh những cảm xúc tâm linh nào đó, và sau đó, khi chúng ta bước ra khỏi nhà thờ hay chùa, tôn giáo không còn ở trong chúng ta nữa. Đây không phải là cách thực hành chân chính. Vì những lời dạy của tôn giáo phải luôn ở trong chúng ta bất cứ nơi nào. Những lời dạy trong tôn giáo của chúng ta phải luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống để khi chúng ta thật sự cần được giúp đỡ và cầu xin sự gia hộ hay sức mạnh nội tâm, thì những lời dạy đó sẽ có ngay trong ta ở những giờ phút như vậy; những lời dạy này sẽ có mặt khi chúng ta gặp khó khăn, bởi vì chúng hằng hiện hữu ngay trong tâm ta. Chỉ khi nào tôn giáo trở nên một phần bất di bất dịch của cuộc sống chúng ta, thì lúc ấy tôn giáo mới thật sự có hiệu quả.

Chúng ta cũng cần phải nhận thức sâu sắc hơn những ý nghĩa và giá trị tâm linh của những truyền thống tôn giáo của chính mình, mà chúng ta cần phải biết những lời dạy không chỉ ở nơi sự hiểu biết của trí thức mà còn phải qua sự nhận thức sâu sắc hơn của chúng ta. Đôi khi chúng ta hiểu những quan niệm khác nhau về tôn giáo một cách quá hời hợt hay chỉ qua sách vở mà thôi. Nếu không có sự suy niệm sâu xa, sự hiệu quả của tôn giáo sẽ trở nên hạn chế. Vì vậy, chúng ta cần phải thực hành chân thật, và tôn giáo phải trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.

 

TẦM QUAN TRỌNG VỀ SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC TÔN GIÁO

Yếu tố thứ hai được quan tâm hơn, đó là sự giao tiếp giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Ngày nay, vì sự phát triển kỹ thuật và bản chất của nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải dựa vào nhau nhiều hơn bao giờ hết. Các quốc gia khác nhau, các lục địa khác nhau đã trở nên liên kết chặt chẽ với nhau hơn. Trong thực tế sự sống còn của một khu vực này trên thế giới, là sự phụ thuộc vào các khu vực khác. Vì thế, thế giới đã trở nên gần gũi và phụ thuộc lẫn nhau, và kết quả đưa đến là có sự giao tiếp nhiều hơn giữa con người. Trong tình huống đó, quan niệm đa nguyên giữa các tôn giáo của thế giới rất là quan trọng. Thời gian trước đây, các cộng đồng sống tách biệt nhau và tôn giáo đã phát sinh trong sự tương đối cô lập với quan niệm cho rằng chỉ có một tôn giáo đã là hữu dụng. Nhưng ngày nay tình thế đã thay đổi và hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau. Cho nên, bây giờ sự chấp nhận có nhiều tôn giáo tồn tại là tối quan trọng, và để có thể tạo được sự tôn trọng lẫn nhau thật sự giữa các tôn giáo, sự giao tiếp chặt chẽ giữa các tôn giáo rất là cần thiết. Đây là yếu tố thứ hai có thể làm cho các tôn giáo của thế giới hữu hiệu trong việc mang lại lợi ích cho nhân loại.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết khi Ngài còn sống ở Tây Tạng, Ngài không có được sự tiếp xúc với người có đức tin vào tôn giáo khác, vì vậy, thái độ của Ngài đối với các tôn giáo khác không được tích cực lắm. Nhưng một khi Ngài có cơ hội gặp gỡ với nhiều người từ các tôn giáo khác nhau và học hỏi từ các cuộc tiếp xúc cá nhân cùng kinh nghiệm, thái độ của Ngài đối với các tôn giáo khác đã thay đổi. Ngài khám phá ra rằng các tôn giáo khác cũng đã mang đến ích lợi cho nhân loại, và tiềm lực của mỗi tôn giáo đã đóng góp để làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Trong những thế kỷ sau này, nhiều tôn giáo đã đóng góp to lớn cho sự tiến bộ của con người, và ngay cả ngày này có một số lượng các tín đồ của Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Ju-đa Giáo, Phật Giáo và Ấn-độ Giáo... Hàng triệu người đang được hưởng nhiều sự lợi ích từ tất cả các tôn giáo này. Để thí dụ cho giá trị của sự gặp gỡ những người thuộc các đức tin khác nhau, Ngài đã nhắc lại những Cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với một vị đã quá cố là ông Thomas Merton. Những cuộc gặp gỡ với ông làm cho Ngài phát hiện được ông là một con người thật tốt đẹp và cao quý dường nào. Vào một dịp khác, Ngài đã gặp một tu sĩ Thiên Chúa giáo La Mã ở Monsersat, một trong những tu viện nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha. Ngài được cho biết là vị tu sĩ này đã sống nhiều năm ẩn tu trên ngọn đồi nằm sau tu viện. Khi Ngài thăm viếng tu viện, vị tu sĩ này rời khỏi nơi ông ẩn dật một cách đặc biệt để gặp Ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: “Khi đó tiếng Anh của ông còn kém hơn cả tiếng Anh của tôi, và điều đó đã giúp tôi thêm can đảm để nói chuyện với ông ! Chúng tôi giữ nguyên tư thế mặt đối mặt, và tôi hỏi ông: "Trong những năm vừa qua Ngài đã làm gì trên ngọn đồi đó?" Ông nhìn tôi trả lời: "Thiền quán về lòng từ bi và tình yêu." Khi ông nói những lời đó, tôi đọc được lời nhắn gửi này qua đôi mắt của ông. Tôi thực sự kính phục ông và những người như ông."

Những kinh nghiệm nầy đã giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng rằng các tôn giáo trên thế giới có một tiềm lực để đào tạo ra những người tốt, dù cho có nhiều sự khác biệt về triết lý và giáo điều. Vì mọi tôn giáo đều có những truyền thống cao đẹp của chính mình để trao truyền đến tín đồ. Thí dụ, từ một quan điểm của một Phật-Tử, khái niệm về đấng Tạo Hóa thật là phi lý, bởi vì theo định luật nhân quả của nhà Phật, khái niệm trên khó có thể hiểu được. Tuy nhiên, đây không phải là nơi để thảo luận về các vấn đề triết học. Điểm quan trọng ở đây chính là đối với những người tin theo tín lý căn bản là Đấng Tạo Hóa thì cách giải thích này rất hiệu quả. Theo truyền thống này, mỗi một con người được tạo ra bởi Thượng Đế. Thêm vào, đó, như Ngài học được từ những người bạn Thiên Chúa Giáo của Ngài, họ không chấp nhận thuyết tái sinh, và vì thế, họ không tin có kiếp trước và kiếp sau. Họ chỉ tin vào kiếp sống này. Tuy nhiên, họ tin rằng kiếp sống này được tạo ra bởi Thượng Đế, bởi Đấng Tạo Hóa và khái niệm này tạo nên trong họ một tình cảm thân thiết với Thượng Đế. Lời dạy tôn giáo này quan trọng nhất với họ là vì ý muốn của Thượng Đế mà chúng ta có mặt hôm nay; tương lai chúng ta tùy thuộc vào Đấng Tạo Hóa, và bởi vì Đấng Tạo Hóa được coi như toàn thiện và tối cao, nên chúng ta luôn phải thương yêu Thượng Đế là Đấng Tạo Hóa.

Theo lời dạy trên, chúng ta luôn phải yêu thương đồng loại, đây chính là thông điệp nguyên thủy. Đó cũng là lý do, nếu chúng ta yêu thương Thượng Đế, thì chúng ta cũng phải yêu thương đồng loại của mình, bởi vì họ, cũng như chúng ta, đều được tạo ra bởi Thượng Đế. Tương lai của họ, như tương lai của chúng ta, tùy thuộc vào Đấng Tạo Hóa.

Vì vậy, hoàn cảnh của họ cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Có những người miệng nói yêu kính Chúa, nhưng chính họ lại không có được tình yêu chân thật đối với đồng loại của mình. Vì thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng cách giải thích hợp lý là: "Nếu người tín đồ thật lòng tin Chúa, yêu Chúa, phải chứng minh được sự chân thật tình yêu của người ấy dành cho Chúa qua tình yêu đối với đồng loại."

Vì vậy nếu chúng ta kiểm chứng kỹ lưỡng mọi tôn giáo từ nhiều góc cạnh trong một phương cách giống nhau - không chỉ đơn giản từ vị trí triết học của riêng chúng ta mà từ nhiều quan điểm sẽ không còn nghi ngờ rằng tất cả các tôn giáo chính đều có một tiềm lực cải tiến con người. Điều này thật rõ ràng. Qua sự tiếp xúc chặt chẽ với các tôn giáo, chúng ta có thể phát triển một thái độ rộng mở hơn và tương kính đối với các tôn giáo khác. Sự tiếp xúc và gần gũi với các tôn giáo đã giúp Ngài học hỏi thêm những ý kiến mới, những cách thực hành mới, cùng những phương pháp và kỹ thuật mới mà Ngài có thể bổ túc vào phương cách thực hành của Ngài. Tương tự như vậy, một vài các anh chị em Thiên Chúa Giáo của Ngài cũng đã đem một vài phương pháp của Phật Giáo ví dụ như

phương pháp thực hành sự nhất tâm cũng như kỹ thuật giúp tăng trưởng lòng khoan dung, đức từ bi, và sự thương yêu. Có rất nhiều lợi ích khi hành giả của các tôn giáo khác đến với nhau cho sự trao đổi như vậy. Ngoài sự tăng cường phát triển sự hòa hợp giữa chúng ta, còn có rất nhiều sự ích lợi khác nữa.

Các chính trị gia và các nhà lãnh đạo các quốc gia thường hay nói đến "sự cùng tồn tại và kết hợp". Tại sao chúng ta là những con người của tôn giáo mà không làm như vậy ? Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ là thời gian đã đến lúc để cho chúng ta làm như vậy. Thí dụ như tại Assisi vào năm 1987, các vị lãnh đạo và đại biểu của nhiều tôn giáo khác nhau đã gặp gỡ và cầu nguyện chung với nhau, mặc dầu Ngài không chắc là "cầu nguyện" là danh từ  chính xác để mô tả xác thực sự thực hành của tất cả mọi tôn giáo. Dù sao đi nữa, điều quan trọng là tất cả đại biểu các tôn giáo đã về lại với nhau trong cùng một nơi, và tùy theo lòng tin của họ mà cầu nguyện. Điều này đã và đang tiếp tục diễn ra và theo Ngài nghĩ là sự phát triển này hết sức tốt đẹp. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần đóng góp nhiều nỗ lực cho việc phát triển sự hòa hợp và gần gũi giữa các tôn giáo của thế giới, vì nếu không có những nỗ lực như vậy, chúng ta sẽ phải tiếp tục chịu nhiều khó khăn của sự chia rẽ nhân loại.

Nếu tôn giáo là phương thuốc duy nhất để suy giảm sự xung đột của con người, mà phương thuốc đó lại là một nguồn gốc khác của xung đột thì tôn giáo sẽ trở nên thật tai hại. Ngày nay, như trong quá khứ, nhân danh tôn giáo xung đột đã xảy ra, bởi vì sự khác biệt tôn giáo, và Ngài nghĩ điều này thật đáng buồn. Nhưng như Ngài đã đề cập trước, nếu chúng ta chịu suy nghĩ một cách sâu rộng, chúng ta sẽ nhận ra rằng hoàn cảnh trong quá khứ đã hoàn toàn khác hẳn bây giờ. Chúng ta không còn sống cô lập nữa mà thay vào đó chúng ta phải phụ thuộc vào nhau. Vì thế, ngày nay chúng ta thấy được rằng cần phải có sự quan hệ mật thiết giữa các tôn giáo là hết sức cấp thiết, để cho các tôn giáo khác nhau có thể làm việc gần gũi bên nhau và cùng nỗ lực đóng góp cho lợi ích của nhân loại.

Do đó, với sự thành tâm và đức tin trong việc hành trì tôn giáo, cộng với sự khoan dung và cùng nhau hợp tác, đã tạo nên chiều hướng đầu tiên giá trị của việc hành trì tâm linh đối với nhân loại.