Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

 

GIẢI THOÁT KHỔ ĐAU

VÀ PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

 

ĐỨC DALAI LAMA - ĐÀO NGUYÊN MINH dịch

KHỔ ĐAU VÀ TỪ BI

 

Không đề cập đến nguồn gốc và sự tiến hóa của nó, Phật Giáo Đại Thừa không còn ngờ gì là con đường nhắm đến giải thoát cho mọi chúng sinh. Một ai khi bước vào con đường Đại Thừa, người ấy được xem như là tham dự vào gia đình Bồ Tát. Điều này xảy ra cho bất cứ một ai, trong quá trình phát triển tâm linh của họ, nhận ra được thế nào lòng từ bi chân chính.Từ bi, dĩ nhiên, có thể hiểu trên nhiều mức độ, và ở mức độ cao thượng nhất của lòng từ bi là giải thoát cho bạn, tuy nhiên, chúng ta hãy xét ở đây có ý nghĩa gì khi nói đến lòng “từ bi chân chính”.

Theo Phật Giáo, từ bi là một chí nguyện, một trạng thái tâm linh, muốn cho kẻ khác thoát khỏi khổ đau. Nó không phải thụ động - nó không là cảm thông riêng thôi - mà là lòng thông cảm vị tha để phấn đấu một cách tích cực hầu cứu giúp kẻ khác thoát khỏi khổ đau. Từ bi chân chính phải có cả trí tuệ sáng suốt và tấm lòng từ ái. Có nghĩa là, chúng ta phải hiểu rõ bản chất của khổ đau là gì, từ đó chúng ta mới mong làm sao cho kẻ khác được giải thoát (đây là trí tuệ), và chúng ta phải thể nghiệm và có sự cảm thông sâu sắcđối với chúng sinh khác (đây là từ bi).Chúng ta hãy cứu xét đến hai yếu tố này.

Sự khổ đau mà từ đó chúng ta mong muốn giải thoát cho chúng sinh khác, theo lời dạy của Đức Phật, có ba mức độ. Mức độ thứ nhất bao gồm về các cảm giác vật lý và tâm lý của sự đau đớn và khó chịu một cách rõ ràng mà chúng ta có thể dễ dàng nhận biết đó là đau khổ (khổ-khổ). Loại khổ đau này chủ yếu là ở mức độ cảm giác - cảm giác khó chịu hoặc cảm giác đau đớn. Một Đại Sư Tây Tạng, Panchen Losang Chokyi Gyaltsan, gia sư của Đức Dalai Lama thứ năm, nhắc cho chúng ta biết rằng ngay cả những loài động vật cũng tìm cách tránh khổ đau và khó chịu của thể xác.

Mức độ thứ hai là sự khổ đau của thay đổi (hoại-khổ). Mặc dù có một số kinh nghiệm hoặc cảm giác được cho là thú vị và mong muốn lúc bấy giờ, nhưng vốn đã mang sẵn trong chúng khả năng đưa đến cao điểm của kinh nghiệm không toại ý. Nói một cách khác là không có bất cứ một kinh nghiệm nào mà có thể kéo dài đến vô tận, những kinh nghiệm mang sự mong muốn cuối cùng rồi sẽ được thay thế bằng những kinh nghiệm trung tính hoặc kinh nghiệm không toại ý. Nếu không phải là trường hợp mà kinh nghiệm mong muốn tự nó đã mang sẵn bản chất của thay đổi, vậy thì, khi có một kinh nghiệm hạnh phúc nào đó, thì chúng ta vẫn được hạnh phúc mãi mãi! Trên thực tế, nếu sự mong muốn là chắc thực để mà hưởng, vậy thì khi chúng ta càng đeo sát với nó, thì chúng ta lại càng được hạnh phúc thêm lên. Tuy nhiên, ở đây không phải là như vậy.Trên thực tế, và một cách thường xuyên, chúng ta càng đeo đuổi những kinh nghiệm này, thì mức độ vỡ mộng, không toại ý, và bất hạnh của chúng ta lại càng sâu đậm hơn.

Chúng ta có thể tìm thấy nhiều thí dụ trong sự đau khổ của thay đổi nơi cuộc sống của mình, nhưng ở đây chúng ta hãy lấy thí dụ một trường hợp đơn giản của một người mua một chiếc xe mới: Trong mấy ngày đầu tiên, người ấy có thể hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn hài lòng về việc mua chiếc xe của mình. Không ngừng suy nghĩ về chiếc xe, lưu tâm và trân quý nó, đánh bụi và rửa sạch nó, và đánh bóng nó. Người ấy thậm chí có thể nghĩ rằng mình muốn ngủ bên cạnh nó! Tuy nhiên, theo thời gian, mức độ hứng thú và niềm vui không còn cao nữa. Có lẽ người ấy bắt đầu lấy chiếc xe để đem ra so sánh, hoặc có lẽ người ấy bắt đầu hối tiếc vì đã không mua một chiếc xe đắt tiền hơn hoặc một màu xe khác. Dần dà, niềm vui về việc mua chiếc xe lại giảm đi, đưa đến cao điểm mang tính chất không toại ý - có lẽ lại muốn mua một chiếc xe khác mới hơn. Đó là những gì mà Phật tử chúng ta nói đến sự đau khổ của thay đổi.

Người tu hành thì cần phải ý thức và nhận biết rõ mức độ đau khổ này.Ý thức về mức độ đau khổ không phải chỉ có Phật tử; chí nguyện đạt sự giải thoát khỏi đau khổ của thay đổi, cũng có thể tìm thấy trong số những người không-là-Phật-tử mà họ thực hành phương pháp thiền quán.

Nhưng mức tới độ thứ ba của đau khổ là quan trọng nhất - sự đau khổ phổ cập trong điều kiện hiện hành (hành-khổ). Nỗi khổ này nói ngay đến thực tế của sự hiện hữu không giác ngộ của chúng ta, thực tế mà chúng ta đang bị điều động bởi những cảm xúc tiêu cực và là nguyên nhân có gốc rễ tự bên trong của chúng, nói một cách khác, là sự thiếu hiểu biết căn bản của chúng ta về bản chất đích thực (căn-bản vô-minh). Phật Giáo khẳng định rằng khi mà chúng ta còn bị dưới sự điều khiển bởi sự thiếu hiểu biết cơ bản này, thì khi đó chúng ta hãy còn chịu đau khổ; sự hiện hữu không giác ngộ này mà bị đau khổ là bởi ngay nơi bản chất của nó.

Nếu chúng ta muốn rèn luyện trí tuệ thâm sâu nhất, thì chúng ta cần phải hiểu rõ đau khổ ở mức độ sâu thẳm nhất, phổ quát nhất.Đến lượt, giải thoát từ mức độ đau khổ đó mới thực sự là Niết Bàn, thực sự giải thoát, thực sự chấm dứt khổ đau. Giải thoát ở mức độ thứ nhất của đau khổ không thôi – chỉ là giải thoát khỏi những kinh nghiệm khó chịu về vật lý và tâm lý - không thực sự chấm dứt đau khổ; giải thoát ở mức độ thứ hai, hơn nữa cũng không thực sự chấm dứt đau khổ, tuy nhiên, giải thoát ở mức độ thứ ba của đau khổ - mới là hoàn toàn giải thoát khỏi gốc rễ của đau khổ - đó mới thực sự chấm dứt đau khổ, thực sự giải thoát.

Giải thoát ở mức độ thứ nhất của đau khổ được cho là đạt đến trình độ nào đó bằng cách có được sự tái sinh cao quý hơn - một sự tái sinh của con người may mắn hơn, hoặc tái sinh thành vị thần sống lâu hơn. Giải thoát ở mức độ thứ hai của đau khổ có thể đạt được xuyên qua các trạng thái thiền quán trần thế.Thí dụ, xuyên qua sự thực hành thiền quán thâm sâu, một cá nhân có thể thể nghiệm được những gì gọi là bốn cõi sắc giới (thấy được) và bốn cõi vô sắc giới (không thấy được). Trong cõi cao nhất của sắc giới và trong cả bốn cõi vô sắc giới, chúng sinh được cho là siêu việt trên những cảm giác của cả đau đớn và sung sướng, tuy nhiên vẫn còn ở trong trạng thái trung tính về cảm giác - nhưng những trạng thái này không kéo dài lâu quá thời gian mà họ ở trong thiền định thâm sâu. Do đó, không thoát khỏi vòng luân hồi, có những cảnh giới mà ở đó người ta có thể đạt được sự giải thoát từ hai mức độ thứ nhất và thứ hai của đau khổ mà thôi. Giải thoát ở mức độ thứ ba của đau khổ mới thực sự là Phật Pháp, nương theo Phật Pháp chúng ta thoát khỏi mọi đau khổ và phiền não. Và bước vào con đường hướng đến Phật Pháp đó được gọi là Phật Đạo.

Hiểu biết sâu sắc về khổ đau theo cách này là yếu tố đầu tiên củalòng từ bi chân chính. Yếu tố thứ hai của từ bi chân chính, lòng từ ái, là phát triển cảm giác gần gũi và thông cảm đối với tất cả chúng sinh, phải được thực hiện trên cơ sở là nhận ra sự liên đới và phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng ta với chúng sinh khác. Chúng ta phải phát triển khả năng liên đới với chúng sinh khác, để cảm thấy gần gũi với họ. Điều này có thể được hoàn tất bằng cách ghi nhận một cách có ý thức và chủ ý sự giới hạn và hậu quả tai hại của lòng vị-kỷ - chỉ biết phúc lợi của riêng mình - và sau đó suy nghiệm về các giới đức và công đức của sự cao thượngmang phúc lợi đến chúng sinh khác (vị-tha).

SỰ PHÁT TRIỂN TIỆM TIẾN

Chúng ta cần một sự phát triển tiệm tiến (từ từ) trong việc rèn luyện tâm linh để đạt tiến bộ trong việc phát triển tinh thần và tâm lý của mình hướng đến một tâm thức cao thượng về giới đức và sự thực chứng thâm sâu. Chúng ta nhận thấy sự phát triển tiệm tiến này ở khắp mọi nơi, kể cả thế giới vật chất bên ngoài và cõi lòng bên trong.Trên thực tế, sự phát triển tiệm tiến xuất hiện như là một định luật tự nhiên, một hệ quả tất yếu, vì nó chính là luật nhân-và-quả. Sự chuyển hóa tâm thức và phát triển tâm linh phải diễn ra trên căn bản của những gì mà Phật Giáo gọi là sự kết hợp giữa phương tiện (upaya) và trí tuệ (prajna). Tâm Kinh là một biểu hiện tuyệt vời về trí tuệ.Bây giờ, chúng ta hãy chú ý đến phương tiện, đặc biệt về mặt phát triển lòng từ bi.

Để cho trí tuệ về không-tính phục vụ như là sự đối trị hoàn toàn hữu hiệu cả về các phiền não tâm thần (phiền-não-chướng) và những chướng ngại kiến thức vi tế (sở-tri-chướng), người ta cần phải có yếu tố bổ xung, đó là Bồ Đề Tâm (tâm giác-ngộ), tức là chí nguyện vị tha để đạt đến Phật Quả cho sự lợi lạc của mọi chúng sinh. Bồ Đề Tâm, về mặt phương tiện của Phật Đạo, là một yếu tố cần thiết quan trọng để đạt đến tâm thức toàn trí toàn giác - tâm thức của một vị Phật giác ngộ viên mãn.Hơn nữa, có thể nói rằng Bồ Đề Tâm là đặc trưng của một vị Bồ Tát.

Người ta có thể có được sự hiểu biết thâm sâu và giá trị về không-tính, và người ta thậm chí có thể đạt đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, tuy nhiên, khi một người mà còn thiếu Bồ Đề Tâm, thì người ấy không phải là một vị Bồ Tát.Để phát huy Bồ Đề Tâm này, không phải chỉ mang chí nguyện từ bi suông là mong cầu cho chúng sinh khác được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau. Mà muốn phát huy lòng từ bi một cách mạnh mẽ như thế, trước tiên người ấy cần phải phát triển một cảm giác thân thiết và cảm thông với chúng sinh khác; không có sự thân thiết chân thành, thì Bồ Đề Tâm chân chính không thể nào phát sinh. Chúng ta sẽ khảo sát sự thân thiết này như sau.

Các bậc đại sư Ấn Độ của Tu Viện Nalanda đã đặt ra hai phương pháp chính để phát Bồ Đề Tâm đó là phương pháp bảy điểm nhân-và-quả, và phương pháp bình đẳng và giao hoán giữa mình và kẻ khác.

PHƯƠNG PHÁP BẢY ĐIỂM NHÂN-VÀ-QUẢ

Trong phương pháp bảy điểm nhân-và-quả, bạn hãy hình dung mỗi một chúng sinh là người mẹ yêu quý của mình hay là một người nào đó mà đối với họ, bạn có lòng kính mến nhất.Để thực hành phương diện này, hãy gợi lên lòng quý mến xuất phát từ người mẹ của mình hay một tình mẫu tử khác và khi đó triển khai cảm giác này đến cho mọi chúng sinh.Nhận thấy rằng mỗi một chúng sinh đã từng tử tế và thương mến bạn như vậy.Khi chúng ta thực sự nhận ra được sự liên hệvới nhau từ vô lượng kiếp về trước, chúng ta mới thấy rằng tất cả chúng sinh khác đã từng là cha mẹ mình và đã từng trao cho chúng ta tình thương yêu và sự dưỡng dục cao quý như thế.

Chúng ta có thể quan sát lòng tốt này thể hiện như thế nào bằng cách nhìn vào thế giới của loài động vật. Nếu chúng ta quan sát thật kỹ các loài chim, chúng ta thấy rằng cho đến khi chim con có đủ khả năng tự chăm sóc lấy bản thân, chim mẹ che chở chúng dưới đôi cánh của mình và nớm mồi nuôi nấng chúng. Dù chim mẹ thực sự có, hay không có, những gì mà con người chúng ta gọi là lòng từ bi, nhưng riêng đối với hành động này, không còn nghi ngờ gì nữa về tình thương bao la của chim mẹ. Chim con hoàn toàn lệ thuộc vào chim mẹ; chúng xem chim mẹ là kẻ che chở duy nhất của chúng, là nơi nương tựa duy nhất của chúng, và là nơi cấp dưỡng duy nhất của chúng. Hơn thế nữa, chim mẹ cũng mang lại sựan toàn cho chim con dù chim mẹ sẵn sàng hy sinh mạng sống, nếu cần thiết, để bảo vệ cho chúng. Đây là một tinh thần mà chúng ta cần phải trau dồi để mà tiếp cận với tất cả chúng sinh.

Suy nghiệm về vô lượng kiếp về trước, cho phép chúng ta nhận thấy rằng mọi chúng sinh đã hành động y theo cách này đối với chúng ta, trong khả năng nào đó và ở mức độ nào đó. Cảm nhận được như vậy, chúng ta mới có thể phát huy một cảm giác mạnh mẽ về sự thông cảm và biết ơn đối với chúng sinh khác, trong đó, lần lượt, cho phép chúng ta cảm nhận một cảm giác gần gũi chân thành to lớn đối với họ. Cảm nhận được sự thân thiết này, chúng ta mới có thể nhận ra được lòng tốt của họ đối với chúng ta, bất kể hiện nay họ có thể hành xử như thế nào đối với chúng ta.Đây là những gì mang ý nghĩa của sự thân thiết chân chính đối với muôn loài chúng sinh.

Nhưng, giống như tất cả các sự việc khác, sự thân thiết này đến với chúng ta một cách tiệm tiến. Giai đoạn đầu tiên là rèn luyện một cảm nhận bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Trong tâm thức bình thường, hằng ngày của chúng ta, những cảm xúc và thái độ của chúng ta đối với kẻ khác hay thay đổi biến động một cách dữ dội - chúng ta cảm thấy thân thiết với một số người mà lại xa rời với một số người khác; cảm tình của chúng ta, ngay cả đối với cùng một người, có thể thay đổi từ cực điểm này đến cực điểm khác khi có vài sự thay đổi hoàn cảnh nhỏ nhặt. Nhưng, nếu chúng ta không trừ khử đi những tâm lý phiền não, cảm ứng thân thiết hằng ngày này của mình, thì sẽ không tránh khỏi chúng bén rễ trong ảo tưởng, trong chấp trước.Sự thân thiết mà bén rễ trong chấp trước có thể là trở ngại thực sự cho sự phát huy lòng từ bi chân chính của chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải bắt đầu bằng cách rèn luyện tâm thức bình đẳng (tâm xả). Sau đó, có được tâm bình đẳng thuần túy rồi, chúng ta mới vun bồi cảm giác thân thiết dựa trên luận lý chứ không phải chấp trước.

Theo thời gian, chúng ta phát huy một cảm giác thân thiết là chúng ta không thể nào đứng nhìn khi thấy chúng sinh khác đang bị đau khổ.Đến khi mà tâm đại từ bi của chúng ta, tức chí nguyện chân thành là mong thấy chúng sinh khác thoát khỏi khổ đau, trở nên thật mạnh mẽ để chúng ta thực hiện sự cam kết rằng chính chúng ta sẽ mang lại sự giải thoát khổ đau cho họ. Và tương tự như vậy, chúng ta phát huy lòng từ ái - mong rằng chúng sinh khác được hưởng hạnh phúc - và một lần nữa thực hiện cam kết rằng chính chúng ta sẽ mang lại cho họ niềm anvui hạnh phúc này. Cuối cùng, khi chúng ta đã phát huy lòng từ bi mạnh mẽ với cảm giác cam kết cá nhân như thế, chúng ta mới phát khởi một "thái độ vị tha phi thường" là tìm cách giải thoát cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau bởi tự chính họ. Khi chúng ta đã rèn luyện thái độ phi thường này rồi, chúng ta mới có thể phân tích xem liệu chúng ta thực sự có khả năng mang lại cho người khác hạnh phúc tối thượng hay không. Một luận sư Ấn Độ vĩ đại, Ngài Pháp Xứng (Dharmakirti), diễn giải trong tập Lượng Thích Luận (Pramanavar-ttika) như sau:

Nếu các yếu tố liên quan đến các phương pháp hãy còn mơ hồ,

Thì rất khó mà giải thích chúng cho người khác được.

Từ quan điểm Phật Giáo, cách hiệu quả nhất để bảo đảm việc mang lại hạnh phúc tối thượng cho tất cả chúng sinh khác là hướng dẫn họ đạt đến Phật Quả.Tuy nhiên, nhằm hướng dẫn họ đạt đến mục tiêu đó, chúng ta cần phải có cả kiến ##thức lẫn sự thực chứng thiết thực về điều đó tự nơibản thân mình. Suy nghiệm theo cách này, chúng ta mới nhận thấy rằng, nhằm bảo đảm hạnh phúc tột cùng của tất cả chúng sinh, thì chính chúng ta cần phải đạt được sự giác ngộ. Ngay nơi tư tưởng này, đỉnh điểm của việc thực hành phương pháp bảy điểm, là Bồ Đề Tâm.Cưu mang với cả haichí nguyện mang lại hạnh phúc cho kẻ khác và chí nguyện đạt đến Phật Quả chính là vì mục đích đó.

BÌNH ĐẲNG VÀ HOÁN CHUYỂN GIỮA MÌNH VÀ KẺ KHÁC

Một phương pháp khác, bình đẳng và hoán chuyển giữa mình và kẻ khác, nhằm rèn luyện nhận thức sâu sắc về sự bình đẳng căn bản của mình và kẻ khác. Trên thực tế,theo sự mong ước tự nhiên là mong cầu hạnh phúc và vượt thoát khổ đau, mình và kẻ khác khác hoàn toàn giống nhau. Chúng ta phải rèn luyện tư tưởng rằng "Cũng như bản thân của mình có quyền thành toàn khát vọng cơ bản để được hạnh phúc và vượt thoát khổ đau, thì kẻ khác cũng mong ước như vậy". Sự khác biệt giữa mình và mọi kẻ khác chỉ nằm ở trong con số: trường hợp đề cập đến một cá nhân đơn lẽ và trường hợpkia có vô số chúng sinh. Khi đó chúng ta thử hỏi, nhu cầu của ai lớn hơn?

Thông thường, khi chúng ta nghĩ về lợi ích của riêng mình so với lợi ích của những kẻ khác, chúng ta có một quan điểm cho rằng hai bên không liên quan gì với nhau.Đây không phải là vậy.Vì mọi người là một phần của cộng đồng, một cấu trúc xã hội phức tạp, bất cứ một sự kiện tiêu cực nào trong cuộc sống của một cá nhân đều có ảnh hưởng đến toàn thể cộng đồng.Tương tự như vậy, bất cứ điều gì ảnh hưởng đến cộng đồng đều ảnh hưởng đến từng thành viên cá nhân trong cộng đồng đó.

Hơn nữa, hãy xét những dòng luận lý sau đây: Nếu, bởi từ những ý nghĩ cố chấp vào lòng vị-kỷ của mình, chúng ta có thể đã thành toàn chí nguyện đạt đến hạnh phúc cho riêng mình, tuy nhiên, vì chúng ta đã thực hiện việc này không ngừng nghỉ từ khi chào đời và qua biết bao nhiêu kiếp sinh tử, thì chắc chắn giờ đây chúng ta đã thành công rồi. Nhưng, dĩ nhiên, chúng ta đã không thành công. Vì vậy, chúng ta phải kết luận rằng, dùng tâm thức qua cách vị-kỷ quen thuộc của chúng ta sẽ không bao giờ mang lại cho chúng ta hạnh phúc tối thượng hay giải thoát ngay cả chính mình ra khỏi khổ đau.

Ngược lại, Ngài Tịch Thiên (Shantideva) nêu ra trong Hướng Dẫn Cách Sống Của Bồ Tát (Guide to the Bodhisattvas Way of Life) cho rằng nếu, tại một thời điểm nào đó trong quá khứ, chúng ta đã đảo ngược cách mà chúng ta đang thực hiện là, loại bỏ lòng vị-kỷ của mình và thay vào đó ý tưởng vị-tha, tức là trân quý phúc lợi của kẻ khác, để theo đuổi Phật Đạo, với sự thay đổi quan điểm này, chúng ta bây giờ có lẽ đã đạt đến trạng thái toàn giác rồi. Ngài viết:

Nếu bạn đã có trong quá khứ xa xưa

hoàn tất những hành động như thế này,

khôngkhác với hạnh phúc hoàn hảo của Đức Phật,

thì tình trạng của ngày hôm nay có lẽ không là vậy.

VỊ-KỶ ĐỐI VỚI VỊ-THA

Trong Bảo Hành Vương Chính Luận (Ratnavali), Ngài Long Thọ (Nagarju-na) nêu ra rằng những ai muốn đạt được trạng thái toàn trí của một vị Phật, điều cần thiết là phải duy trì ba nguyên tắc cơ bản – đại từ bi, đó là gốc; Bồ Đề Tâm, xuất phát từ lòng đại từ bi; và trí tuệ thực chứng về tính không, cũng là yếu tố quan trọng bổ sung cho hai yếu tố kia.

Tất cả các bậc thánh vĩ đại, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thấy được sự lợi ích trong việc rèn luyện ý tưởng tôn trọng hạnh phúc của kẻ khác. Ngược lại, chúng ta thì cứ sống trong vòng luân hồi khổ sở trôi lăn không ngừng nghỉ như những con sóng trên đại dương - thậm chí trước khi một làn sóng kết thúc, một làn sóng khác đã phát sinh. Mặc dù chúng ta phàn nàn về khổ đau, nhưng chúng ta vẫn cứ bị vướng trong vòng luân hồi này là bởi vì chúng ta đã giao toàn bộ hạnh phúc của mình cho thái độ cực kỳ vị-kỷ này và bởi vì chúng ta đã kết dính chính mình với thái độ phản bội cố chấp vào sự có mặt của cái ngã (tự-ngã).

Gốc rễ của mọi khổ đau nằm trong hai lực lượng mạnh mẽ: Ngã-chấp – bám víu vào sự giả dối nơi một cái tự-ngã cho là chắc thực - và ý tưởng vị-kỷ để chỉ biết lo đến hạnh phúc của riêng mình. Hai thái độ này nằm tận nơi sâu thẳm nhất trong tâm chúng ta và ở đó kết hợp tạo lực lượng và nắm giữ sự thống trị không bị thách thức trên cuộc sống của chúng ta. Trừ khi chúng ta tích cực tìm kiếm sự hiểu biết một cách triệt để về không-tính (trí tuệ) và lòng từ bi đối với kẻ khác (từ bi), còn không thì sự thống trị này sẽ vẫn kiên cố gây khó khăn và không thay đổi như một viên kim cương.

Điều quan trọng là chúng ta không nên hiểu lầm lý tưởng vị-tha của lòng thương yêu chúng sinh khác. Chúng ta không nên hiểu nó theo chiều hướng mà cho rằng chúng ta phải hy sinh toàn diện hoặc bỏ lợi ích của riêng mình. Trên thực tế, nếu chúng ta nhìn vào việc thực hành Bồ Đề Tâm, chúng ta thấy rằng rèn luyện chí nguyện vị-tha này được đi kèm với việc hoàn thành tốt nhất các lợi ích của chính mình.Hoàn toàn giác ngộ (toàn giác) có hai khía cạnh, thể hiện bằng sự kết hợp của "Sắc Thân" (rupakaya) [hình tướng thân] và "Pháp Thân" (dharmakaya) [thực tướng thân].Pháp Thân biểu hiện cho việc hoàn tất phúc lợi của riêng mình, trong khi đó Sắc Thân biểu hiện cho việc hoàn tất phúc lợi của các kẻ khác. Cũng tương tự như vậy, Đại Sư Phật Giáo Tây Tạng Tsongkhapa nêu ra rằng khi một người cứu giúp các chúng sinh khác, thì chí nguyện của người ấy lại được hoàn tất như là một sản phẩm phụ. Trên thực tế, theo đuổi lợi ích lớn nhất cho những người khác là cách khôn ngoan nhất để theo đuổi lợi ích cho chính mình.

THỰC HÀNH PHÁP CHO VÀ NHẬN

Trên cơ sở có được sự thông cảm phát triển sâu xa đối với kẻ khác, khi đó người ta có thể tham dự vào việc thực hành phương pháp tong-len, mà là tiếng Tây Tạng gọi là "cho và nhận". Qua lối thực hành này, người ta hình dung mình nhận tất cả những đau khổ và tiềm năng đau khổ của người khác vào mình, trong khi đó cho ra tất cả hạnh phúc và tiềm năng tốt lành của mình cho họ. Việc thực hành sự nhận vào cốt yếu là tăng cường lòng Bi, trong khi việc thực hành sự cho ra cốt yếu là tăng cường lòng Từ. Một câu hỏi được đặt ra là liệu lối thực hành như vậy có hiệu quả trực tiếp như thế nào đến đối tượng thiền quán của người ấy, mặc dù ở đó, có thể có sự kết nối mạnh mẽ của nghiệp giữa sự tồn tại của các cá nhân. Tuy nhiên, điều chắc chắn là việc thực hành tong-len có thể có tác động to lớn vào việc tăng cường lòng can đảm và sự quyết tâm để thực hiện hạnh nguyện Bồ Tát nơi chính mình. Hơn nữa, tong-len làm giảm đi sức mạnh của tinh thần vị-kỷ, đồng thời tăng cường năng lực về ý nghĩ trân quý phúc lợi của kẻ khác, tinh thần vị-tha. Khi rèn luyện qua phương pháp tiếp cận để mà trao đổi (hoán chuyển) và cân bằng (bình đẳng) giữa mình và kẻ khác, thì sự thực hành này cũng có thể sinh ra thái độ vị-tha phi thường, và cuối cùng là dẫn đến chính ngay Bồ Đề Tâm.

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

Một lần nữa tôi xin nhấn mạnh rằng sự phát triển Bồ Đề Tâm là phương pháp tiệm tiến.Nó bắt đầu từ mức độ hiểu biết thuộc về kiến thức (kiến văn) có nguồn gốc chủ yếu từ việc nghe hoặc học các bài giảng về giáo lý. Khi chúng ta tiếp tục suy nghiệm về Bồ Đề Tâm ở mức độ kiến thức, vào một thời điểm nào đó, chúng ta có thể bắt đầu cảm thấy có một niềm tin sâu sắc hơn nơi lý tưởng cao quý của Bồ Đề Tâm. Chúng ta sau đó sẽ đạt được những gì có thể được gọi là mức độ suy nghiệm nơi kinh nghiệm (quán chiếu).Khi chúng ta đi sâu vào sự suy nghiệm và hiểu biết này, chúng ta sẽ đạt đến một điểm là chúng ta thực sự và thấu hiểu chính xác ít ra là lý tưởng, hoặc cảm nghiệm của Bồ Đề Tâm. Thấu hiểu được điều này, chúng ta mới có thể thực hành một cách trọn vẹn các tiến trình tư tưởng để vun bồi Bồ Đề Tâm và cảm thấy có một tác động mạnh mẽ bên trong; vào thời điểm đó, chúng ta sẽ đạt được Bồ Đề Tâm phát sinh qua sự nỗ lực - nhưng Bồ Đề Tâm mô phỏng này chưa phải là Bồ Đề Tâm thực sự. Chỉ có qua cách thực hành nhiều thêm, chúng ta mới có thể đạt đến điểm mà Bồ Đề Tâm phát huy một cách tự nhiên. Tại thời điểm này, chúng ta không còn cần phải thông qua một quá trình cố ý suy nghiệm để cho Bồ Đề Tâm phát sinh, một ý nghĩ bén nhạy đơn giản hoặc vài kích thích bên ngoài có thể phát sinh ra cảm xúc mạnh mẽ này. Bồ Đề Tâm chân chính này là Bồ Đề Tâm của Bồ Tát (thực tướng), và muốn đạt được nó một người cần phải chính mình trở thành một vị Bồ Tát.