Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

 

KHÔNG ĐỀ

 

BS. NGUYỄN Ý ĐỨC

 

Khi tiếp xúc với quý vị cao niên, cũng như gia đình và bạn bè họ, vì nghề nghiệp hay qua giao tế trong đời sống hàng ngày, chúng tôi được nghe nhiều mẫu ưu tư, nhiều lời tâm sự của tuổi về già.  Có những vị về già với phong cách thoải mái thì cũng nhiều vị gặp một số khó khăn, thử thách.  Chúng tôi xin ghi lại sau đây một vài tâm sự

Vợ chồng già

Một bà lão than phiền là lão ông ít lâu nay trở nên khó tính, hay gắt gỏng với bà vì những lý do không đáng gắt gỏng, nhưng khi gặp bạn bè thì ông ấy tươi vui như tết.  Bà cũng buồn là ông vẫn sống theo lối cổ điển, chồn chúa vợ tôi, không chịu tiếp tay với bà làm một vài công việc trong nhà.  Hai ông bà đã cử hành lễ bạc được 17 năm, chỉ còn tám năm nữa thì con cháu sẽ tổ chức lễ vàng mừng ông bà, nếu mọi sự đều êm đẹp.

Trường hợp trên rất thông thường trong nhiều căp vợ chồng người cao niên.  Giữa hai người, đã có những điều không bằng lòng, những bất đồng không giải quyết, nhất là từ khi ông về hưu, các con đã thành đạt, ở riêng.  Thời gian ông còn đi làm, bà hầu như quán xuyến mọi việc trong nhà, theo đùng truyền thống người đàn bà Việt Nam: chịu đựng và hy sinh.  Bây giờ, ông tuy về hưu, nhiều thì giờ rảnh rỗi, nhưng phong lưu quen thói, chỉ thích giao du với bạn bè.  Bà buồn tình bèn cầu cứu hỏi ý kiến các con.

Cô con gái út vốn tếu, hù mẹ, “coi chừng bố có đào nhí đấy mẹ ơi.” Anh con trai lớn cho là bố mẹ hiện đang trải qua một khó khăn do không có sự đối thoại, cảm thông, giải quyết bất đồng ý kiến. Mẹ vốn chịu đựng nhưng đã tới lúc không kham được nữa, nhưng mẹ không chịu nói cho bố hay.  Còn bố thì bực mình vì rủ mẹ đi đây đi đó, mẹ chẳng chịu đi.  Cô thứ hai gợi ý bố mẹ đi tham khảo nhà chuyên môn.  Để chiều các con cũng như muốn lấy lại cái  vui vẻ có nhau trên bốn chục năm qua, ông bà đồng ý.

Từ đó, khi có chuyện gì bực với ông, bà mạnh dạn nói thẳng với chồng để có sự thông cảm.  Nếu không nói cho nhau hay sự khác biệt thì chẳng bao giờ có tâm an. Ông phải nói ra ý kiến của mình, bà cũng vậy, đó là cách hữu hiệu để giải tỏa ấm ức trong lòng.  Hai người cũng thỏa thuận là nếu một người “nổi tam bành” thì người kia “một sự nhịn là chín sự lành”, im đi cho qua cơn sóng gió rồi tính sau.  Chứ hai người cùng nóng nẩy một lúc thì chỉ có tan hoang cửa nhà.  Vả lại, mình nhịn vợ nhịn chồng mình chứ sức mấy mà nhịn người hàng xóm.  Ông chạy ra chợ mua gói bánh phở, mớ rau, giúp bà rửa bát. Về hưu, nhiều thì giờ trống, làm việc nhà giúp vợ cũng là điều hợp lý, công bằng, đồng thời chứng tỏ rằng ta còn hữu dụng.

Mà khi chồng làm thì vợ đừng: gớm sao mà bát còn dính mỡ, rau còn nhiều đất. Kẻo chàng giận lẩy, thì bà làm lấy đi. Bà cũng dành thì giờ đi đây đi đó với ông, lâu lâu vợ chồng đi nghe nhạc, nhảy đầm. Hai người còn tăng số thời gian để đi lễ, đi thăm con cháu, chăm sóc sức khỏe cho nhau. Đồng thời cũng không sao nhãng những cuộc mây mưa nhẹ nhàng, vừa lợi ích sinh lý, vừa tăng phần mật thiết tình già.

Nói cho cùng lý, ngay trong những cuộc hôn nhân toàn hảo nhất, lâu dài nhất, rất hiếm có sự hợp ý về mọi vấn đề. Với hôn nhân, sẽ liên tục có những thương lượng để đi đến thỏa thuận, nhân nhượng, hòa giải để có an vui, cũng như cùng chia sẻ những sự thực để có thông cảm.  Đôi khi cần có khoảng thời gian ngắn xa cách nhau để hương gây mùi nhớ.

Tác giả A.J. Leibling đã phát biểu: người sành ăn phải không giầu quá hoặc nghèo quá.  Vì có nhiều tiền anh ta sẽ mua ăn lãng phí, không thưởng thức.  Mà nghèo quá thì không có tiền mua thức ăn ngon.  Về già cũng vậy, thường xuyên gần nhau thì dễ chán vì no nê. Ít đi một tý sẽ gây thèm nhớ, thiếu thốn.

Chuyện khoảng cách giữa bố mẹ-con cái

Tâm sự tiếp là mối liên hệ giữa hai ông bà Lan với các con.

Ông bà năm nay cũng gần bảy chục tuổi, được một trai hai gái, và ba cháu nội ngoại.  Các con đã trưởng thành, có công ăn việc làm tốt. Ông bà đã hy sinh rất nhiều trong công việc học hành cũng như dựng vợ giả chồng cho các con.  Bây giờ, tuy chúng đã lớn, ông bà vẫn để ý chăm sóc, giúp đỡ, nhắc nhở các việc cần làm. Ông bà vẫn nghĩ là dầu sao chúng vẫn là con mình, còn thiếu kinh nghiệm trường đời, nên còn cần đến ông bà.  Ông bà cho việc chăm sóc này là tự nhiên, cũng như trước đây ông bà đã được các cụ thân chăm sóc, gây dựng cho mình. Ông bà rất hãnh diện với bạn bè về sự thành đạt của các con, do bàn tay mình tạo ra.

Mấy người con thì rất cảm ơn bố mẹ, nhưng không được vui lắm.  Họ cho là bố mẹ vẫn coi họ là con nít, cần nhiều lời khuyên dạy, hướng dẫn, đôi khi quá xen vào đời tư của họ.

Cụ ông thì nhắc nhở phải mua bảo hiểm xe hai chiều cũng như nhớ ngày xin gia hạn bằng lái xe. Thấy con trai hơi mập, cụ nhắc phải ăn kiêng khem, tập thể thao.  Khi con về thăm quê hơng là hai cụ viết ra cả một danh sách dài mấy trang giấy: phải mang quần áo gì, quá cáp cho ai, đừng quên thuốc ngừa tiêu chảy, cảm cúm, tên họ bà con, gặp bác này nói gì, cô kia hỏi thăm ra sao…

Con gái mang cháu về thăm bố mẹ, thì cụ bà chỉ cho con từ cách thay tã tới cho cháu bú..Bà lên thăm cháu thì lau chùi tủ lạnh, sắp lại thực phẩm ở nhà khi, đôi khi còn tự động thay đổi phòng ngủ của cháu.  Cứ làm như nhà mình, chẳng quan tâm gì đến ý kiến của con gái và rể…

Các con nghĩ là bố mẹ đã quá che chở, bảo vệ con, không hiểu rõ các con, không thấy những khó khăn mà các con đã tự vượt qua, mà chỉ chờ có cơ hội là khuyên nhủ, chỉ dẫn.  Các con muốn được có dịp chia sẻ mọi việc với bố mẹ mà không bị phán xét, hoặc “còn làm thế không được, con phải làm thế này, bố biết rõ mà.”

Nhiều khi các con muốn thật cởi mở với cha mẹ mà cứ sợ cha mẹ phật ý. Họ muốn cha mẹ cư xử với mình như một người bạn trưởng thành, chứ không phải đứa bé đầu còn để chỏm, mặc quần thủng đít. Cũng xin đừng có ý muốn kiểm soát, thay đổi nếp sống của con.

Ngoài vài mâu thuẫn kể trên, mối liên hệ giữa ông bà Lan và các con rất hòa thuận. Liên hệ này là do tình yêu thương của các cháu với cha mẹ, và do các cháu muốn vậy chứ không phải vì bổn phận. Các con cháu nghĩ là mối liên hệ gia đình cần được duy trì và làm toàn hảo hơn, vì các cháu không từ bỏ được cha mẹ và không muốn sau này mang niềm tiếc hối.

Nhân tình huống trên, có người đặt vấn đề là liệu các con có nợ, có bổn phận hay chịu ơn bố mẹ ở một khía cạnh nào không hay ngược lại.

Đã có thời kỳ con cái được coi như sở hữu của cha mẹ, sống và làm việc phụ giúp cha mẹ trong dịch vụ thương mại, canh nông…của gia đình.  Trưởng thành được cha mẹ dựng vợ, gả chồng, cung cấp cho một số vốn để làm ăn, một cơ ngơi nhỏ để ở.  Con hầu như phụ thuộc vào cha mẹ, nên có khái niệm công ơn sinh thành dưỡng dục và bổn phận đối với cha mẹ.  Và quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” phát sinh.  Do đó, con cái phụng dưỡng cha mẹ nhiều khi vì bổn phận, trả ơn, nhiều hơn là vì yêu thương.  Chúng sợ bị mang tiếng là bất hiếu, vô ân.

Cũng có xu hướng cho là con cái không mang nợ gì với cha mẹ.  Khi chọn lựa có con vì bất cứ lý do nào, (nối dõi tông đường, vui cửa vui nhà, thêm nhân lực…) thì cha mẹ đã mang cái trách nhiệm nuôi chúng cho tới khi trưởng thành. Và chính cha mẹ mang nợ với con cái, cho tới khi chúng khôn lớn, tự lập.  Khi về già, các bậc cha mẹ nếu có cần con tiếp đỡ thì các người cũng mong là do tình thương yêu, đùm bọc mà ra, chứ không do “nuôi chúng, bây giờ chúng nuôi lại”.

Ông già nói nhiều

Câu chuyện sau đây do Cụ Linh kể.  Cụ cho biết là ông bạn già Tân hồi này trở thành nhà hùng biện quá độ.  Trong bất cứ cuộc họp mặt nào với anh em, ông cũng giành nói hết.  Ông kể những việc ông đã làm khi Nhật cướp chính quyền, chuyện đói năm Ất Dậu với bao nhiêu người chết, chuyện đào hoa của ông khi xưa với các thiếu nữ Hàng Gai, Hàng Đào v.v..Có chuyện ông đã kể đi kể lại cả chục lần, người nghe phát ngán mà ông vẫn tỉnh bơ, nói tiếp.

Cụ Linh mao tôn cương như sau: “Già Tân mắc tật ba hoa”.

Mà chẳng riêng gì già Tân, nhiều vị cao niên cũng mắc tật này.  Khi say sưa nói, già Tân không để ý là nhiều người khác cũng có chuyện để kể.  Không ai ngắt lời già Tân, vì các cụ do thói quen được dạy từ nhỏ là không ngắt lời người lớn tuổi.  Già quên là ngoại trừ khi mình làm chủ nhân, khách đâu có trách nhiệm cần giữ câu chuyện cho liên tục, mà dành phần chủ động, đưa đà.  Hơn nữa, chuyện mình kể có thể hấp dẫn với mình, nhưng với cử tọa có mặt chưa chắc đã được tán thưởng, nhất là khi có nhiều bạn trẻ tham dự.  Và chuyện già nói đâu có gì mới lạ.

Cụ Linh cảnh giác là nếu cứ tiếp tục thì sợ rằng già Tân không còn cử tọa.

Già dưới con mắt người trẻ.

Tập san Y Sĩ của Hội Y Sĩ VN tại Canada có đăng bài phỏng vấn một đồng nghiệp ngoài 30 tuổi, chúng tôi thấy có vài ý kiến đáng lưu ý, nên xin trích đăng sau đây để chúng ta chùng suy gẫm.

Khi được hỏi: “Giữa thế hệ già và trẻ thường có nhiều quan điểm bất đồng.  Theo ý anh, một người ngoài 30 tuổi, đâu là những dị biệt đáng kể nhất?”

Đồng nghiệp 32 tuổi đã trả lời: “Giới trẻ thường than và các bậc cha anh của họ còn quy nặng về quá khứ, ít nhìn nhận hiện tại (tỷ dụ sự tranh đấu khó khăn của họ để có chỗ đứng nơi đất khách quê người) và không mấy tự sửa soạn (ít ra về tâm lý) để thích ứng với biến chuyển trong tương lai. Thế hệ trẻ thấy thế hệ cha anh đã chịu quá nhiều ảnh hưởng của nho học, tư tưởng bị giam khóa trong “khuôn vàng thước ngọc” của trật tự xã hội “sĩ nông công thương” trọng người bạch diện thư sinh, khinh anh vai u thịt bắp, cảnh chân lấm tay bùn của kẻ thợ thuyền.  Thời Pháp Thuộc cũng đã cho họ một lối học từ chương, ít suy nghĩ và thực hành, thích hợp với việc đào tạo một thừa hành viên mẫn cán hơn là một doanh gia độc lập, có sáng kiến và biết quyết định nhanh chóng trong mọi thử thách.  Thế hệ cha anh cũng quá trọng khoa bảng, chỉ biết căn cứ vào mảnh bằng để phán xét đạo đức và nhân phẩm con người.  Một số lại ưa dùng sáo ngữ, thậm chí cả lộng ngôn ngoa ngữ để che đậy sự suy diễn nông cạn, sự tổ chức thiếu mọi điều nghiên cứu đứng đắn, hay những thực hành không thực tiễn hay thiếu tầm vóc, những điều mà ta ít thấy ở người Đại Hàn, Trung Hoa.  Giới trẻ cũng thấy rằng thế hệ cha anh thường quy ngã (egocentrique) và chấp ngã.  Khoan dung với khuyết điểm của mình, mà xét nét nghiệt ngã mọi sơ hở của người khác.  Ngoài ra lại có óc thủ lợi gần, không có tầm nhìn xa và ưa dùng tiểu xảo để giữ quyền lợi ích kỷ và ý thức thường được giới hạn trong ranh giới gia đình, hoàn toàn thiếu các lý tưởng và ý thức xã hội”.

Người viết chỉ xin phép tác giả bài viết và ban chủ biên Tập san Y Sĩ của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada được trích đăng nguyên văn mà không có lời lạm bàn.  Nhưng thấy vài ý kiến dường như cũng đạt tới tim đen của mình.

Và mượn ý một đoạn trong nhật ký ngày 1 tháng 7, 1910 của văn hào Nga Leo Tolstoy để làm dáng cho tản mạn Không Đề này:

“Cuộc đời của ta là đi tìm sự thỏa mãn.  Có thỏa mãn thể xác, sức khỏe, tiền bạc, danh vọng, quyền lực, tình dục.  Những thỏa mãn này ở ngoài tầm kiểm soát của ta, có thể bị sự chết lấy đi bất cứ lúc nào, và không phải ai cũng có được.  Nhưng còn những thỏa mãn khác về tinh thần, về tình thương yêu tha nhân, mà ta luôn luôn làm chủ, tử thần không cướp đi được, mà khi ta càng sống với nó thì đời ta càng đẹp hơn.”

Hy vọng rằng có nhiều người cũng nghĩ như vậy.