QUÊ NGOẠI
VÀ CỐM AN THUẬN
HOÀNG ĐÌNH TUÂN
Sau bao thăng trầm. những hoài niệm của tôi về tuổi thơ có thật nhiều kỷ niệm thân thiết ngọt ngào. Trong đó quê hương bên ngoại lại có bao điều đáng nhớ. Có phải bởi nơi đây người mẹ dấu yêu một thời đã sinh ra và lớn lên? Hay tình ngoại bao la trìu mến, trĩu nặng nhớ thương mỗi lúc mẹ con lên chơi mà tôi cảm nhận được? Quê ngoại của tôi là địa phương có tên An Thuận, nơi có nhiều hương vị ngọt ngào của cốm nếp, của quýt giống Hương Cần, của mối tình thơ dại ngày xưa... Đáng nhớ hơn nữa, cốm An Thuận là một sản phẩm bình dân, vừa ngon lại vừa rẻ, được dân Huế ưa chuộng, là món quà chờ đợi của trẻ thơ mỗi lúc mẹ đi chợ về. Vốn sinh trưởng trong một gia đình chịu ảnh hưởng nặng nề về luân lý Khổng Mạnh, tuổi thơ của tôi đóng khung trong khuôn phép. Từ lời ăn tiếng nói, từ cách đi đứng xưng hô, nhất nhất phải theo nề nếp trật tự tôn ti. Lại nữa, gánh tam lòng đè nặng, mẹ tôi cũng khép mình vào bổn phận với cảnh làm dâu xứ Huế. Chìu mẹ chồng vốn nghiêm khắc giữ nếp nha, lấy lòng mấy ông bác ông chú mụ o, nhường nhịn cả mấy em chồng cho êm gia đạo. Bởi kinh tế gia đình che đậy dưới lớp vỏ khá giả bên ngoài, mẹ tôi phải vất vả bán buôn. Ra đi từ tờ mờ sáng tinh mơ cho đến tối mịt mới về nên mẹ con chẳng có thì giờ chia sớt buồn vui. Tôi chỉ thực sự thích thú thoải mái mỗi lần theo mẹ về quê thăm ngoại. Hàng năm vào khoảng mồng 4 Tết, sau khi gia đình đã lo xong lễ đưa ông bà vào ngày mồng 3, mẹ tôi được phép bà nội cho đưa con lên quê ngoại ăn Tết muộn. Thường thường mẹ dẩn tôi đi bộ dùng lộ trình từ con đường Thuận An ngang qua quê tôi làng Nam Phổ, dẫn xuống ngã huyện đường Phú Vang. Tiếp qua cầu chợ Nọ thuộc địa phận làng Dương Nổ, men theo con đờng nhỏ hẹp ven sông Lợi Nông của làng Thạch Căn, rồi qua chuyến đò ngang Vọng Trì. Sau khi băng qua làng, chúng tôi đi xuyên qua cánh đồng mơn mởn xanh tươi với bao cỏ cây cùng các loại hoa màu phụ. Sở dĩ nơi đây không canh tác lúa vì không có hệ thống dẩn thủy tưới tiêu. Phần đông bà con gieo đậu phụng xen lẩn các loại đậu xanh đỏ đà đen quanh luống và gieo mè ven lối đi. Có thể do nắng ấm mùa Xuân, do không khí trong lành nơi đồng nội mà gương vàng của hoa lấp lánh đẹp dịu dàng trên nền xanh non của lá đậu, từng luống từng vạt nom vui mắt. Màu tim tím xinh xinh của hoa mè hoa đậu, gợi cho đời bao niềm hi vọng. Ngoài ra muôn sắc xanh đỏ tím vàng của các loài hoa dại ven đường, tiếng gù gáy của lũ cu đất mời gọi bạn, tất cả khiến lòng tôi vốn phơi phới lại càng náo nức nôn nao. Khỏi cánh đồng rộng giữa hai làng, chúng tôi vào làng Tiên Nộn đáp đò ngang sang phố Bao Vinh. Qua khỏi cống về hướng Địa Linh, chúng tôi men theo con đờng đất của mấy làng ven sông Lệ Khê rợp bóng tre. Trên suốt đoạn đường từ chợ Nọ qua đây, rãi rác mấy sòng bài vụ, bầu cua thu hút các em nhỏ. Đông vui hơn cả là các tụ điểm bài chòi, bài ghế với lời rao di quân dí dỏm của ngời phụ trách, tiếng trống kèn vui tai mỗi lần có quân bài tới của người thắng giải. Tiếp đến chúng tôi phải băng qua cánh đồng rộng ngút ngàn của làng Bồ Đôn. Trên hương lộ lát sỏi, hai bên vệ đường là cánh đồng ngập nước. Đó đây dăm đám cò rình bắt cá, con đậu con bay. Là đà én liệng, lướt qua đám bông lúa trổ lại trên đầu cuống rạ của loại lúa hẻo rằn. đợi người mót. Vụ mùa ở địa phương này thường chậm hơn ở quê tôi vài tháng vì thuộc vùng thấp bị ảnh hưởng nước ngâm sau mùa lụt. Bởi vậy nông dân thường về các vùng quanh quê tôi phụ giúp thu hoạch mùa màng với danh nghĩa đi bạn. Sau khi hoàn tất đợi canh tác vụ tới, nông dân vùng tôi đi bạn giúp trở lại. Trong các lần đi bạn này có bao mối tình chớm nở và chờ đợi bởi "Rồi mùa tót rạ rơm khô, bạn về quê bạn biết nơi mô mà kiếm tìm". Hết làng Bồ Đôn, hương lộ dẩn chúng tôi đến chợ Cần, ngôi chợ của 3 làng Hương Cần, An Thuận, Vân Cù, nơi trao đổi sản phẩm địa phương qua bạn hàng buôn phân phối về các miền phố chợ bên Huế cùng mua sắm các thứ mà dân làng cần dùng cho cuộc sống. Qua khỏi chợ là cửa ngỏ về làng An Thuận. Sau khi băng qua Cồn Tra, khu nghĩa địa với lũ mục đồng ưa chòng ghẹo trẻ nhát gan lạ mặt, tôi nép sát theo mẹ mà lòng hồi hộp. Vừa sợ lại vừa mừng.
Thế mà có lần mẹ tôi chọn đi bằng đường sông với con đò nhỏ thuê ở một vạn đò người quen thuộc phường Cồn Cát của làng Dương Nổ. Nơi đây dân làng xem mẹ tôi như là thành phần thân thiết qua quán nhỏ tạp hóa cung ứng hàng ngày.
O nhớ chèo thong thả để cháu có dịp ngắm nhìn phong cảnh o nghe. Mẹ tôi dịu dàng đề nghị cùng o lái đò. Tội nghiệp con tôi. Có khi mô mà cháu được hưởng thú đi thuyền trên sông nước. Lần ni tui muốn con tui cho cháu biết cái cảm giác lâng lâng của thú lái đò. Tiết trời Xuân ấm áp. Không khí Tết còn quyện đó đây. Cỏ cây hai bên đường mơn mởn điểm hoa xinh.
Người người hân hoan tràn hi vọng. Lòng tôi cũng vậy. Trong khi mẹ tôi vào nghỉ trong khoang, tôi ngồi dựa mạn đò ngắm bèo nước trời mây. Con đò rời sông con Nam Phổ nhập giòng sông cái Lợi Nông qua hướng Thạch Căn rẽ qua sông nhỏ Mậu Tài. Nhìn mấy o tươi cười trên bến nước mà nhớ đến ca dao Triều Sơn bán nón Mậu Tài bán kim. Qua khỏi địa phận làng, len lỏi trườn mình trong lòng hói hẹp của làng Lại Ân, con đò nhỏ ra đến sông cái của giòng Hương giang hướng ngả ba Sình. Hai đình làng Thanh Phước và Địa Linh đối diện đôi bờ đông vui với các trò chơi Xuân. Trời lặng gió. Nước chảy êm đềm. Là ngả ba hợp lưu của hai dòng Hương giang và sông Bồ nên thường có sóng lớn lúc trời nổi gió. Tương truyền ngày xa nơi đây có 3 ngọn sóng thần nhận chìm đò ghe thương hồ khi có giông bão lụt lội.
Về sau nhà Vua cho bắn súng thần công trị thần sóng nên từ đó mới được yên. Khỏi Sình ngược sông Bồ qua bến đò Quán Cơm, hai làng Thủy Tú Nam Thanh ngày thường rộn rịp với nghề gạch ngói, làng Vân Cù với nghề đồng áng làm bún, nay thảy rộn ràng, mọi người bảnh bao trong các trò giải trí và đi lại viếng thăm. Với sông nước hữu tình, cảnh vật nên thơ, người ngời hớn hở, chợt lòng cảm thấy vui tươi, hồn lâng lâng tưởng mình lạc đến bến mơ nào. Có phải vì sợ con cái mình lãng mạn nên có quan niệm con đi đò dọc mẹ liều con hư chăng? Xa xa hàng tre la ngà ven sông ngăn bờ lở, ríu rít vui tai bầy giồng giộc quanh hàng tổ treo lửng lơ. Quê ngoại tôi đó. Sau một đổi tôi vội reo vui O lái ơi! Tới nơi rồi. O chèo mau lên đi. Đến cái bên có cầu tre bắc dài ra ngoài bờ sông là xóm của mệ tui đó. O lái quẩy nhẹ mái chèo, từ từ ghe đò cập bến dọc chiếc cầu tre. Được mẹ dìu lên bờ, tôi vụt chạy như bay hướng về nhà ngoại dưới hai hàng tre rợp bóng của xóm quê. Vừa đến ngõ tôi đã gọi to: Mệ ơi! Cháu và mạ cháu vừa mới lên mệ nì. Cháu nhớ mệ quá chừng. Vui mừng chẳng kém, ngoại tôi mắng yêu : Tổ cha mi. Làm chi mà rộn rứa. Mạ mi mô mi? Mau vô nhà thắp hương mừng tuổi ôn ngoại đi nghe. Con Hiền biết bửa ni mi lên nên qua đây chờ từ sáng tới chừ đó. Tới chơi với hắn kẻo hắn trông tội nghiệp. Đôi mắt đen to tròn nhấp nháy. Hiền nhoẻn miệng cười tươi nhìn tôi hỏi: Răng mà eng (anh) lâu lên chơi rứa? Hiền đợi mãi. Hiền là con út của cậu mợ Xuyên. hàng xóm cạnh nhà, thường cùng đùa chơi mỗi dịp tôi được lên thăm ngoại. Nghe tin mẹ con tôi lên, gia đình mấy cậu mợ, dì dượng, anh chị em và bà con đến thăm hỏi với bao lời chúc tụng đầu năm. Dâng hương mừng tuổi tổ tiên và hương linh ông ngoại xong, ngoại bưng ra nào bánh tét với mật nguồn thịt heo, da món, mức bánh ê hề mời mọi người và giục mẹ con tôi ăn. Ôi! Bánh tét chín nhừ với nếp dẻo. Ở giữa là lớp nhưng đậu xanh độn mở béo ngậy, chấm với mật nguồn làm tôi ăn mê mẩn.
Sau khi đã viếng thăm bà con, mẹ tôi cùng ngoại tâm sự kể lể nỗi nhớ niềm nhung. Răng không lấy chồng gần mà lại lấy chồng xa để mẹ con nhớ thương dằng dặc. Ở quê ngoại tôi người ta không gả con lấy chồng xa nên mẹ dù cực khổ bao nhiêu cũng không bao giờ dám mở miệng than van. Phần sợ ngoại buồn, phần sợ người ta lấy đó làm điều mà nhảy miếng. Nhưng khi nhìn Hiền và tôi khăng khít, ngoại cũng ước mong chuyện ngày sau để bà cháu còn có cơ hội xuống lên thăm viếng. Tôi lại cùng Hiền ríu rít vui đùa. Vườn ngoại rộng 5 sào trồng đủ loại cây quý. Quýt giống Hương Cần, cam sành ngọt lịm. Thanh trà, bưởi đỏ ngọt thanh còn hơn cả bưởi Biên Hòa. Vỉa hè chung quanh nhà trồng đủ loại chuối cau, ba lùn, thanh tiêu, đồng nai...Chuối ba lùn trĩu buồng sà gần ngang mặt đất. Lân la chơi đùa Hiền lâm sự : Nơi ni có sông đẹp nên con gái chộ bề ( trông xinh ). Đất màu mở, cây lành trái ngọt do đó tình người chung thủy mà thiết tha. Mạ Hiền nói rứa mà mệ eng cũng nghĩ vậy, eng coi có trúng không? Mà eng nghĩ coi, ngay cả cốm cũng chỉ nơi đây mới có. Ngày sau lớn lên Hiền muốn gánh ôm hai lu đi bán với chị em để mở rộng tầm nhìn. Chứ ở quê tù túng, mênh mang những ước cùng mơ.
- Ừ! Có rứa nên mệ khen Hiền bề quá tay ( xinh quá chừng ) và nhớ mình bảm ( nhiều ) đó. Tôi cười trêu làm cô bé mắc cỡ, nũng nịu véo tôi một phát đau điếng. Mà có thể Hiền cho biết cốm làm cách răng không? Tôi ôn tồn hỏi. -Cốm có hai loại eng nờ. Hiền dịu dàng giải thích. Cốm nếp và cốm giẹp. Hai thứ đều ngon nhưng cốm giẹp cầu kỳ và công phu hơn nên được nhiều người ưa. Cốm giẹp được làm từ loại nếp non khi hạt đang còn xanh gặt về đem luộc chín. Xong đem phơi khô, đổ vào cối giả giẹp, lấy hết vỏ. Sau đó đem rang cho hột nếp nổ phồng rồi trộn đường mới được thắng xong. Còn cốm nếp thì chỉ lấy lúa nếp khô đem rang như rang cốm giẹp vậy. Mà rang nếp và thắng đường cũng phải biết cách. Bằng không thì nếp không nổ hết và đường sẽ bở, cốm rã rọi không dính liền với nhau.
Hiền giải thích rõ ràng hơn được không? - Trước hết Hiền nói về cách rang nếp hỉ. Mà eng đừng cười chọc quê Hiền đó nghe. Thường thường phải dùng một cái chảo gang to, cở người ta dùng nấu cơm trong các trại lính đó. Đổ cát sạch vào đun nóng. Giúp tăng độ nóng và độ béo cho cốm, khi cát nóng, đổ vào vài muỗng ăn canh mỡ, mỗi lần rang. Dùng chiếc đũa bếp lớn dài bằng sãi tay có quấn giẻ phía đầu, quật đều trong cát. Lúc nào thấy đầu giẻ có khói thì đổ nếp vào. Để nếp khỏi nổ vương vãi, người ta đan một cái vung bằng tre có tay nắm trên đầu và chừa một cửa nhỏ để quật nếp nổ cho hết và cho đều. Xong đổ ra sàng lại hết cát, sảy hết vỏ, chuẩn bị trộn đường làm cốm.
-Còn chuyện thắng đường có khó lắm không? tôi tò mò hỏi.
-Cũng không khó mô eng. Vừa nói Hiền vừa nở nụ cười duyên khiến lòng tôi rộn rã bâng khuâng. Đường bát chặt nhỏ bỏ vào chảo dùng rang nếp đó. Đổ nước vào, đun sôi cho đường tan. Lúc nào đường tan hết, dùng chiếc đũa con vớt lấy chút nước đường cho nhỏ vào chén nước lạnh. Nếu đường hòa với nước là chưa được, phải nấu tiếp. Phải canh chừng đừng để đườnggià quá lửa. Lúc nào giọt đường vừa tụ lại thành cục deo dẻo dưới đáy chén là đường đã tới nước. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, đổ cốm vào chảo đường và trộn đều. Dùng một khuôn gỗ hình vuông, mỗi cạnh 80 phân tây có đóng viền gỗ cao khoảng 2 phân tây. Khuôn gỗ có khắc dấu chia ô, 2 cạnh đối diện chia 8 ô và 2 cạnh kia chia 16 ô để khi cắt miệng cốm có cỡ 5ph x 2ph. Đổ cốm đã trộn đường vào khuôn, cáng đều. Thường thường dùng ống gạt cỡ lớn hơn cườm tay, dài hơn thước tây. Xong lấy thước bản, căn cứ các khấc trên thành khuôn, dùng dao bôi chút mỡ cắt cốm thành miếng nhỏ. Cuối cùng đem chất vào lu sành có miệng nhỏ, dùng nùi bằng rơm nút kín miệng lu để cốm khỏi ỉu và lại đường.
Thời gian vô tình trôi. Sau lần về quê ngoại tản cư thời chống Pháp năm 1947, Huế quê hương tôi chẳng được mấy nơi an toàn. Thành phố và các vùng phụ cận còn tương đối an ninh. Quê ngoại tôi một cổ hai tròng. Ban ngày quốc gia kiểm soát. Đêm về Việt Minh thu thuế diện tề. Tôi không nhớ rõ, hình như vào khoảng năm 1950- 1951 gì đó cho đến trước ngày hiệp định Genève, An Thuận biệt lập với sự canh gác chặt chẽ của Tự vệ chiến đấu, cho phép dân đi chợ Cần mua sắm các thứ cần dùng. Còn ngoài ra, mọi sinh hoạt khác chỉ trong nội vi làng, không liên lạc bên ngoài. Bởi thế đêm đêm thỉnh thoảng làng ăn đạn pháo cầm chừng của hai đồn Vân Cù và Hơng Cần nả về. Lòng người hoang mang, chẳng dám tin tưởng vào một ai vì sợ sẽ bị qui kết làm Việt gian. Bao mạng người chết tức tưởi oan khiên, đoạn lìa thân xác bởi mã tấu mác lào. Huế chẳng thấy bóng dáng mấy o bán cốm và tôi không còn dịp về thăm quê ngoại từ đó. Lòng buồn vấn vơng da diết. Sau ngày hòa bình lập lại, tôi và mẹ lại có dịp về thăm. Ngoại tôi già hẳn đi, lưng còng hơn. Nhà được bà con giúp dựng lại nhỏ hơn vì nhà cũ bị đạn lửa thiêu cháy rụi. Chẳng thấy Hiền qua chơi, lòng ngỡ nàng đã lớn nên e thẹn. Nhưng ngoại cho biết Hiền không còn nữa. Bởi một sáng khi qua cổng dẩn ra đồng để phụ giúp công việc đồng áng cho cha mẹ, Hiền vướng phải dây gài lựu đạn mà tự vệ quên gở, bị thương nặng. Lúc ngoại tôi đến nơi, với hai hàng lệ tuôn, nhợt nhạt mấp máy đôi môi, nhờ ngoại nhắn lại là Hiền nhớ, khuyên tôi rán đừng buồn nhiều rồi tắt thở. Bàng hoàng trước tin dữ, tôi qua nhà ba mẹ Hiền và xin phép được đốt nén nhang tưởng niệm. Xúc cảm nghẹn ngào, Ba mẹ Hiền nhìn tôi thương cảm và gật dầu đồng ý. Lật miếng vải điều, ảnh Hiền phảng phất nét buồn. Mắt tôi mờ lệ và hình như thấy khoé hạnh đôi giọt châu ứa mà lòng tan nát. Ôi chiến tranh! Sao người ta nở đày đọa quê hương mình. Bao thảm họa, bao chết chóc đau thương khiến lòng người nát tan. Đến nỗi niềm ước mơ đơn giản bình thường nhất của Hiền mà cũng không thực hiện được. Bây giờ hồi tưởng lại vẫn còn xúc cảm mênh mang. Quê ngoại, hình bóng Hiền cùng câu chuyện cốm vấn vương mãi bên lòng của người lữ thứ hướng về quê hương ngàn dặm.