Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

CÓ NHỮNG DÒNG SÔNG

 

LIÊN HƯNG

 

Chị Liên Hưng vừa gửi đến chia sẽ cùng tre làng một bài chị viết tuy cũ nhưng rất hay và mang nhiều ý nghĩa nhân văn, tre làng giới thiệu cùng bà con

“Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy.

Thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi”

Lời người xưa mãi vang vọng, dòng chảy của mỗi con sông cũng như dòng đời của mỗi con người ở chốn nhân gian này có bao giờ trở lại? Có còn chăng những dư âm lưu dấu ngọt bùi. Dòng sông nào cũng từ nguồn ra biển cũng như con người phải có gốc gác cội nguồn. Có ai đó đã nói quê hương không phải là nơi ta sống lâu nhất nhưng ký ức về hương thì cứ mãi sâu đậm, nhất là khi ta ở xa một nơi nào đó và thế là tâm tư lại cứ khắc khỏai hoài vọng cố hương. Buồn thay cho ai không có một dòng sông quê hương, một dòng sông thơ ấu để ngày sau đan nổi nhớ và ước mơ một thuở quay về.

Dòng sông nơi tôi sinh ra và trải qua tháng năm thơ ấu mang tên Vĩnh Định, ba tôi thường kể đó là con sông đào từ đời vua chúa nhà Nguyễn, nó được đào cùng thời với con kênh Vĩnh Tế ở Nam bộ nên có cùng họ “Vĩnh”. Con sông nhỏ hiền hòa nước xanh trong vắt vang nhịp gõ dân chài vào mỗi chiều hôm như giấc mơ êm đềm ở mãi trong tôi, qua bao năm tháng nhọc nhằn cuộc sống cũng không phai mờ trong tâm trí dù khi xa rời bến nước ngày xưa tôi còn quá ư thơ bé. Dòng sông không rộng nên ngườiquenđi hai bên bờ vẫn nhận ra nhau và có thể nói chuyện với nhau í ới. Có những chiều tôi theo ba tôi đi tắm sông, hai cha con để cái thùng thiếc mỏng nỗi lềnh bềnh trên mặt nước, vừa hì hụp tắm vừa rà tay đáy nước dọc theo bờ sông mò hến, được con nào là thả vào thùng, thú vị làm sao khi mò trúng những con ốc để trong chén canh hiến chiều hôm tôi có thể cắn cắn mút mút vào những cái vỏ ốc đăng đắng một cách thú vị. Đã nhiều lần tập bơi nhưng bao giờ tôi cũng bị uống nước, do đó khi tắm tôi chỉ tung tẩy trong bờ và thèm thuồng nhìn những đứa trẻ khác sải cánh đạp chân bơi ra xa, có những thằng con trai thi nhau bơi qua bờ bênkiarồi leo lên những cây sung rũ bóng cười nói râm ran. Sáng sáng, chị tôi ra sông lấy nước, tôi lại lúp xúp chạy theo chơi. Cứ mỗi khi tôi ra khỏi ngõ là con Vàng lót tót chạy theo, “hai đứa” ngồi chồm hổm trên bến, dưới gốc cây phượng vĩ nhìn chị xắn quần qua khỏi đầu gối, lội ra xa cho đến khi làn nước che khuất đôi bắp chân tròn lẳn mới quăng một đầu gióng ra xa, cánh tay điệu nghệ khẻ khàng chao qua chao lại rồi vục xuống lấy nguyên một thùng đầy nước, lại nhẹ nhàng kéo vào rồi quăng tiếp đầu gióng kia ra... Khi lấy đầy hai thùng nước sạch, chị quảy gánh lên vai, rướn người trèo lên những bậc tam cấp trơn trợt của bến nước rồi vung vẫy đôi vai mềm mại gánh về nhà. Cái thuở đó tuy còn thơ bé nhưng tôi cũng cảm nhận được cái đẹp và nổi vất vả trong vũ điệu gánh nước của chị. Khoảng đường từ# nhà tôi ra bến sông chừng 200 mét, chạy được một quãng chị lại đổi vai, động tác cứ như làm xiếc. Rồi những chiều tôi theo chị ra bến sông giặt giũ, trong khi chị say sưa làm việc thì tôi len lén đến gần mé nước, lượm nhánh tre khô khều những mãng lục bình lại gần để hái hoa chơi hoặc ngắm chị quăng những chiếc áo ra ra rồi nhanh tay kéo lại cứ như Tây Thi giặt lụa. Chị tôi đẹp lắm, mái tóc dài óng mượt thơm mùi chanh, bồ kết; đôi mắt nhung long lanh phảng phất nét buồn trên chiếc mũi thẳng tắp là “tài sản gia truyền”(gia đình tôi ai cũng có chiếc mũi đặc biệt như thế - trừ tôi). Làn da chị không trắng mà lại hây hẩy rám hồng, chị rất yêu đời luôn miệng ca hát. Trai làng theo chị không ít nhưng mẹ tôi quá nghiêm khắc nên họ chỉ dám lấp ló quanh bờ dậu rứt mãi những cọng tơ hồng. Tôi nhớ có lần chị đem tôi đi cắt tóc “bom bê”, anh chàng chủ quán mãi liếc chị nên cái “tông đơ” trong tay cứ “xớt” mãi trên đầu tôi, đến khi “tỉnh ra” thì... tôi chỉ còn nước khóc la bắt đền. Ngày con đò ngang đưa chị sang sông theo chồng về xứ khác, tôi biết không ít trai làng đã ngậm ngùi ca câu “Nàng đội hoa theo chồng, nước mắt tôi rớt bên bờ sông” khúc lở, khúc bồi.

Sau một đêm khói lửa, nhà cửa tan hoang mẹ con tôi về ở tạm bên ngoại tại làng Quy Thiện. Những lúc không cùng nhau trèo lên những ngọn ổi cao chót vót để dành ăn trái chín thơm lừng với lũ chim, tôi lại cùng thằng em họ rong chơi khắp xóm. Con sông Giòng quê ngoại hình như hẹp hơn Vĩnh Định giang nhưng lại rất sâu và nước xanh leo lẻo. Tôi và Khê thường ra bến nước trước chùa làng khoát nước đùa nghịch nhưng không dám lội ra xa. Chiếc cầu tay vượn nối với làng Trâm Lý bắc qua khúc quanh con sông um tùm cây lá, tôi chưa dám một lần bước lên vì chỉ nhìn đã thấy sợ trong khi thằng em họ cùng tuổi chạy qua chạy lại mà không cần tay vịn, đôi lúc còn giả bộ té nhào la hét để dọa tôi. Có lần nó dẫn tôi ra bến nước trước Cồn để tập cho tôi qua cầu. Khúc sông ở đây cạn, về mùa hè giữa lòng sông có nơi phơi bày cát trắng. Khê dẫn tôi bước lên cầu và bảo rằng chị có té xuống cũng không sao (?). Nhưng chiếc cầu tre kêu lên kẽo kẹt và đung đưa như cánh võng khiến tôi hoãng hốt nằm rạp xuống ôm lấy thân cầu làm nó cất tiếng cười vang vọng cả khúc sông. Mãi về sau, cũng có lần tôi qua được bờ bên kia những phải vừa lần vừa bò còn thằng em họ thì cứ thoăn thoắt như chạy trên mặt đất.

Dòng sông Thạch Hãn của một thời hoa đỏ lớn hơn so với hai con sông quê cũ. Khoảng rộng nhất là đoạn bến bồi ở chùa Tỉnh Hội, những giờ nghỉ học tôi và chúng bạn thường xuống đò ngang qua chùa Sư Nữ ngoạn cảnh. Bến nước trước chùa mới tuyệt vời làm sao! Chúng tôi thường ngồi trên bến dưới bóng tre xanh nhìn mây trôi, nhìn chim trời sải cánh, nhìn những chuyến đò dọc xuôi ngược, đò ngang chở khách sang sông và lắng tiếng chuông chùa lay động ánh tà dương trên sóng nước như thức tỉnh bao hồn nhân thế còn mãi trầm mê nơi chốn tục lụy trần gian. Có lần thầy Vỉnh tổ chức lớp cắm trại ở bãi thông Nhan Biều. Bên kia sông - là phố thị hoa đèn, là ồn ào chợ búa. Bên nầy sông - là những hàng thông reo vi vút bên dòng nuớc biếc, bỗng dưng thấy mình như lạc bước về cõi hoang sơ. Rồi những ngày lễ Vu Lan, cùng nhau lên cầu nỗi ra giữa dòng để ngắm cảnh phóng đăng, phóng sinh. Ôi! Dòng sông Thạch Hãn có lúc đã thành nổi hoài vọng xót xa của bao lớp học trò Nguyễn Hoàng một thuở.

Có lần tôi được dịp đến Đông Hà, con sông Hiếu ở đó hình như lại lớn hơn ba con sông kia thì phải. Cái cảnh trên chợ dưới thuyền mới tấp nập làm sao! Đến khi vào Huế, tôi lại đứng lặng bên bờ Hương Giang để nghe tiếng gió thì thào về con sông huyền thoại. Làn nước trong vắt lặng lờ soi bóng mấy nhịp Tràng Tiền lối vào “dấu xưa xe ngựa...”. Đây đó những thuyền nan xuôi ngược dập dìu vang vọng tiếng hò khoan như trôi vào cổ tích.

Rồi những tháng ngày sống tạm bợ trên mãnh đất Quảng Nam, với tôi thuở đó con sông Hàn mới lớn làm sao! Nước không lặng lờ trôi như những dòng chảy trước mà có sóng xao động lòng người. Mỗi lần qua Đà Nẵng chơi, bọn con gái chúng tôi chở nhau bằng xe đạp, cố hết sức đạp xe lên cầu mệt ngất ngư mà gió sông lồng lộng chi cho vướng đôi tà áo trắng.

Sau nầy có dịp đi đó đi đây, tôi đã gặp không biết bao nhiêu sông ngòi lớn nhỏ. Từ những kênh rạch cạn nước sánh bùn của miền Tây Nam bộ, qua hai nhánh Vàm Cỏ của sông Hậu con mẹ Cửu Long một thời chinh chiến, lênh đênh ngắm nhìn cảnh mua bán trên chợ Nỗi, buổi tối bến Ninh Kiều dập dìu tài tử giai nhân, xuôi dòng Tiền Giang vào thăm cồn ông Hổ. Có những chiều dừng chân bên bến Bắc Cần Thơ để đợi chuyến phà cuối ngày. Lối về Bến Tre xứ dừa ngọt lịm mênh mông sóng vỗ mà nghe câu hát Thuyền ra cửa biển. Những lần theo đò dọc ngược dòng những con kênh huyền thoại để vào miệt vườn chiêm ngắm cây trái sum sê và nghe câu hát Lý thương nhau thiệt thà như cô em áo bà ba khăn rằn quấn cổ.

Rồi những lần ra Bắc dọc theo Quốc lộ I tôi qua sông Bến Hải ly hận một thời. Dòng sông nhỏ bé hiền hòa thế kia mà đã mang nổi đau chia cách trong bấy nhiêu năm. “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà” nhớ Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi với nổi lòng “một mãnh tình riêng” ai hay tá? Khi qua phà sông Gianh, đứng giữa cảnh trời nước bao la, bến bờ xa tắp để thấy thân phận con người sao quá ư nhỏ bé mà sao quá ư cay độc, mưu kế hiểm sâu và càng thấm thía mối hận Trịnh – Nguyễn phân tranh cho một thời Nam – Bắc triềi da xáo thịt. Đường còn xa trăng còn cao, những núi những sông âm vang theo từng trang sử, đây sông Lam còn lưu danh hậu thế, ngang sông Mã nghe “gầm lên khúc độc hành” trong tâm tưởng, rồi suối Yến lối vào chùa Hương để mơ về một thuở tóc đuôi gà của cô bé tuổi mười lăm. Sông Thương nước chảy đôi dòng đưa người quen ấy theo chồng thuở xưa như câu “nhắn người duyên dáng tôi thương” còn luyến lưu đến tận bây giờ. Tôi đã đến ngắm sông Hồng reo vui đôi bờ sóng vỗ, qua Bạch Đằng Giang sông ơi ... nhớ chiến công hiển hách cọc nhọn năm xưa để tìm về ải Chi Lăng mồ chôn xác giặc, những bản anh hùng ca ấy như mãi lồng lộng với gió núi mây ngàn vinh danh hồn thiêng sông núi cho lòng tự hào được làm người con dân nước Việt.

Và bây giờ, không biết cuộc đời tôi có dừng lại mãi bên bờ sông Đồng Nai chở nặng phù sa hai mùa mưa nắng nầy không? Còn nhớ cái thuở mới thấy dòng sông tôi đã ngơ ngác lạ lùng vì dòng chảy, vì màu nước sao quá đổi xa lạ, sao không giống con sông hiền hòa nơi tôi đã ra đi. Con sông rộng chia hai phố phường huyên náo, những ngày gió lớn lại dậy sóng đôi bờ. Có những chiều nắng quái, tôi lại đến bên bờ sông, lặng lẽ nhìn đám lục bình tím một màu man mác mà gởi hồn về chốn sông xưa. Tôi thường phóng tầm maắt về bờ tít tắp bên kia để tìm một làn khói lam chiều hay một cụm tre già lả ngọn nhưng nào thấy đâu. “Ai tìm dùm ta bướm trắng...”. Ồ! Đã bảo “dòng sông không trở lại” sao vẫn mơ hồ. Ôi phù du! Phù du như sợi ráng chiều lan tỏa, những tia sáng huyễn hoặc - dư âm của ánh tà dương chiếu lất lây qua những làn mây mỏng phất phơ, đ rồi trước khi tắt lại bừng lên một màu rực rỡ như chẳng cam tâm đi vào bóng tối. Cả một thời tuổi trẻ của tôi đã trôi qua bên bờ sông nầy, hình như dòng sông đã làm chứng cho những thăng trầm cuộc sống bao năm qua của một kiếp người “ở trọ”. Khi vui tôi cùng người thân đến đây để ca hát chuyện trò, khi buồn tôi đến đây để gởi những giọt nước mắt theo dòng, cả những khi chán nãn, tuyệt vọng tôi cũng đến ngồi bên gốc si già, ngắm lục bình trôi, ngắm sóng vỗ, ngắm cảnh hoàng hôn hấp hối để suy tư về một kiếp phù sinh.

Ôi những dòng sông quê hương! Tôi yêu tất cả dù có dòng chở nặng niềm đau, dù có dòng sóng tung nổi nhớ. Nhưng trong tôi, thanh âm dòng sông quê xưa sao cứ luôn vang vọng. Vĩnh Định ơi! Dòng sông ký ức của một thời tuổi thần tiên chắp cánh. Tôi như vẫn thấy bụi tre già lả ngọn treo những tổ chim lửng lơ trong gió bên bờ sông. Tôi như vẫn thấy tàng phượng hồng rực rỡ trên bến báo hiệu tàn xuân. Tôi như vẫn thấy dáng chị tôi uốn mình quăng tấm áo giặt xuống làn nước mát làm mãnh trăng vàng vở vụn trong những đêm hè. Tôi như vẫn nghe tiếng khua lóc cóc của dân chài đánh cá và con đò đưa tôi xa rời tuổi nhỏ còn đậu quanh quẩn đâu đây để chờ trả tôi về bến cũ. Không biết bờ sông năm xưa có còn bên bồi bên lở? Không biết dòng nuớc còn trong xanh soi bóng những hàng tre? Nổi nhớ dòng sông, nổi nhớ thời thơ bé, nổi nhớ quê hương trong tôi cứ tím mãi như màu hoa lục bình trôi dài trên những dòng sông năm tháng.

Tôi sẽ về! Vĩnh Định ơi! Tôi sẽ về thăm cố quận, thăm lại dòng sông... Tôi sẽ về để tìm lại cho mình nhân dáng ngày xưa.

 

Bên bờ Đồng Nai, Ngày cuối năm 2006

Liên Hưng