CÁ ÔNG - CÁ VOI XANH
BKTT
Cá voi xanh, còn gọi là cá ông, là một loài động vật có vú sống tại các đại dương. Chúng sinh sống trong tất cả các đại dương trên thế giới. Chúng được biết đến là loài sinh vật to lớn nhất sống trên Trái Đất
Bề ngoài và kích thước
Chúng to gấp 3 lần khủng long T-rex và dài gấp 1,5 lần khủng long cổ dài Da của chúng màu xanh xám, da bụng có nhiều đốm màu sáng. Chúng có 2 vây bơi hai bên dài 2,4 m.
Trọng lượng: 200 tấn đến 300 tấn, thậm chí có thể lên đến 400 tấn.
Kích thước: 25-27 m (con cá voi xanh dài nhất được biết đến hiện nay: 33,50 m)[
Cá voi xanh sống ở bắc cực có lớp mỡ dày mạch máu cá voi xanh rộng khoảng 1,5
Đời sống
Vì cá voi xanh không có chu kì di trú nhất định cũng như khả năng bắt gặp cá voi xanh là rất hiếm nên hiện nay người ta chưa biết nhiều về đời sống cá nhân và xã hội của cá voi xanh. Cá voi xanh sống đơn lẻ hay di chuyển theo cặp hay một nhóm nhỏ. Tuy các nghiên cứu cho thấy cá voi xanh thích kiếm ăn ở những vùng biển lạnh, nhưng chúng lại có tập tính di cư đến các vùng nước ấm để sinh sản
Kẻ thù và độ tuổi
Tuổi thọ trung bình: 35-40 năm nhưng cũng có thể lên đến 80-90 năm. Với kích thước to lớn như vậy, cá voi xanh hầu như không có bất kì kẻ thù tự nhiên nào là đáng lo ngại. Ngoại trừ cá voi sát thủ (orcas) có thể tấn công cá voi xanh con.
Thức ăn và cách săn mồi
Thức ăn: sinh vật phù du (nhuyễn thể); các loài tôm, tép tí hon; một vài loài cá nhỏ và phân hải cẩu.
Nơi kiếm ăn: Các loài cá voi nói chung đều thường thích kiếm ăn ở các vùng biển lạnh, cụ thể như: Nam và Bắc Đại Tây Dương, Nam và Bắc Thái Bình Dương(đây là những nơi kiếm ăn tốt nhất với chúng)
Cách ăn: Nuốt chửng
Cách săn mồi: Cá voi xanh tấn công một cách nhanh nhẹn vào một tập đoàn sinh vật đông đúc bằng cách lặn sâu xuống lòng biển và trồi lên từ phía dưới. Mỗi lần trồi lên, cá voi xanh mở to cái miệng rộng của mình ra để đớp lấy cả phiêu sinh vật lẫn nước biển. Bộ răng lược sẽ giữ phiêu sinh vật lại và nước biển sẽ chảy ngược ra ngoài. Cá voi xanh có thể lặn sâu 105 m và lặn liên tục trong vòng 1 tiếng đồng hồ.
Điều kì thú
Cá voi xanh được mệnh danh là những ca sĩ lãng du khắp các đại dương. Vì cá voi xanh có thể phát ra âm thanh siêu trầm ở tần số 14 Hz. Và đó cũng là thứ âm thanh lớn nhất trên thế giới, lớn hơn cả tiếng rít của máy bay phản lực với cường độ 200 decibel. Nếu so sánh với tiếng hét của loài người ở 70 decibel, âm thanh cao hơn 120 decibel gây nguy hiểm cho tai người.
Đặc điểm
Cơ thể hình thoi, lông gần như tiêu biến hoàn toàn, có lớp mỡ dưới da rất dày, cổ không phân biệt với thân, vây đuôi nằm ngang, bơi bằng cách uốn mình theo chiều dọc. Chi trước biến đổi thành vây bơi dạng bơi chèo. Song vẫn được nâng đỡ bởi các xương chi như ở động vật có xương sống ở cạn, có xương cánh tay và xương ống tay ngắn, các xương ngón tay lại rất dài, chi sau tiêu giảm. Cá voi xanh sinh sản trong nước, nuôi con bằng sữa. Cá voi xanh sống chủ yếu ở biển ôn đới và biển lạnh.
Tục thờ cá Ông
Tục thờ cá Ông (tức cá voi) là một tín ngưỡng dân gian vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam từ Thanh Hóa vào tận Bến Tre. Đây là tín ngưỡng của cư dân vùng biển, hay còn gọi là vạn chài. "Cá Ông" ở đây là cá voi lưng xám mà theo ngư dân chính là thần Nam Hải. Ngư dân thường phối thờ Cá Ông cùng các vị thần khác đã giúp đỡ và phù hộ cho ngư dân no ấm như: Ngũ Hành Nương Nương, Hữu Lý Ngư, Tả Lý Lịch, v.v.
Nguồn gốc và biến hóa
Tục thờ Cá Ông xuất nguồn từ tục thờ Cá Ông của người Chàm. Tuy nhiên, trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín ngưỡng của người Việt và cả người Hoa.
Đối với người Chàm, Cá Ông là một vị thần của Biển Đông được nhân dân kính cẩn.
Đối với người Việt và người Hoa, Cá Ông chính là mảnh pháp y (áo choàng sau) của Quan Thế Âm (hay Nam Hải Bồ tát) quăng xuống biển để cứu giúp cư dân vùng biển trong cơn giông tố giữa biển.
Mục đích của tục thờ cá Ông hình thành để cầu yên cho các ngư thuyền ra khơi đánh cá và mong được mẻ cá lớn. Tục này thời Gia Long đã thành lệ.
Tín ngưỡng
Theo lệ thì dân chài ai phát hiện được cá voi mắc cạn, tục gọi là "ông lụy" thì có bổn phận chôn cất và để tang Ông như để tang chính cha mẹ mình. Xác cá được đem tắm bằng rượu rồi liệm bằng vải đỏ. Dân làng còn lấy giấy đỏ đắp vào miệng cá thấm lấy nước dãi, xong đem phơi khô rồi đốt thành tro để chữa bệnh suyễn. Xác cá được mai táng trong đụn cát gần biển. Người phát hiện ra cá voi mắc cạn thì được nhân dân tôn sùng và dưới triều nhà Nguyễn còn được miễn sưu dịch 3 năm.
Hàng năm dân làng chọn ngày "ông lụy" (ngày cá Ông trôi vào bờ) làm lễ cúng giỗ theo nghi thức Nghinh Ông. Người địa phương có câu: "Thấy ông vào làng như vàng vào tủ" vì theo tín ngưỡng này, Cá Ông lụy và trôi dạt vào làng nào, làng đó muôn đời ấm no, tai qua nạn khỏi.
Ba bốn năm sau khi chôn thì dân làng phải cải táng, thường làm vào mùa xuân sang hè rồi đem cốt cho nhập lăng và tế chung. Đối với xương cá Ông to lớn thì dân làng sẽ chờ đủ 3 năm cho xương cốt rã ra rồi mới đem vào hòm để đưa về làng thờ. Với trường hợp cá nhỏ, người ta sẽ cho trực tiếp vào hòm và đem về thờ. Khi tế cá thì dân làng cũng cúng các vong hồn ngư dân chết ngoài biển. Tế xong thì có các mục mua vui như hát "chèo ghe", đua thuyền thúng, kéo co, hát tuồng cùng các trò khác.
Điển hình là lễ Cầu Ngư, hay còn gọi lễ tế cá Ông, ở làng Mân Thái thuộc Đà Nẵng. Hằng năm làng tổ chức tế vào Tháng Ba âm lịch. Ba năm thì có đại tế một lần. Ở Bến Tre thì gọi lễ Nghinh Ông, tế vào Tháng Sáu.
Ngoài ra khi dân chài ra khơi họ cũng thường thắp nhang vái Ông phù trợ.
Truyền thuyết và khoa học
Việc Cá Ông liên tục cứu giúp ngư dân miền biển lúc giông to gió lớn đã khiến cho tục thờ Cá Ông đã trở thành một nét văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên khoa học cũng kiểm chứng được một phần vì khi giông tố nổi lên thì cá voi cũng bị sóng biển đẩy vào bờ và dễ bị mắc cạn. cá voi theo thuyền để tìm vật cọ sát cho con cá ép trên thân mình rớt ra Vì hiện tượng song hành này ngư dân cho là cá "giúp" dân chài.
BKTT