CHÙA TÂY AN NÚI SAM
Lược trích"Đức Phật Thầy Tây An" của Vương Kim&Đào Hưng
1. Tây An cổ tự ở Long Kiến
Chính nơi đây Đức Phật Thầy giáng thế cứu đời phát phù trị bệnh cho vạn dân bá tánh. Nguyên trước khi Ngài đến chỗ này đã có một cái cốc. Cái cốc ấy vẫn của ông đạo Kiến lập lên để ở và độ thuốc cứu bệnh cho dân làng. Hồi Đức Phật Thầy đến đây thì quang cảnh cái cốc gần như điêu tàn bởi ông đạo Kiến đã hóa ra người thiên cổ. Ngài cho tu bổ lại, trang bị thành một cơ cấu tôn giáo. Chính ở đây lần đầu tiên Đức Phật Thầy chỉ dạy các nghi tiết thờ phượng lễ bái cùng cách thức tu hành cho các môn nhân đệ tử. Thế cho nên người ta có thể nói tấm trần điều được trương lên nơi ngôi Tam Bảo thay thế cho tượng Phật chính là chùa này trước hơn hết. Một khi hiểu được cách thờ phượng ở chùa này, người ta dễ phân biệt được chùa nào còn noi theo chơn truyền của Đức Phật và gia đình đệ tử nào là môn nhân đệ tử của Ngài.
Khi Đức Phật Thầy bị dời lên tỉnh An Giang thì cái chùa này cũng chưa có đặt tên. Mãi cho đến năm Bính Thìn 1856, trước khi Ngài tịch bảy ngày, Ngài mới cho hiệu chùa ở núi Sam là Tây An Tự và đồng thời Ngài cho người xuống Kiến Thạnh đặt hiệu cho cái cốc của ông đạo Kiến cũng là Tây An Tự. Nhưng muốn phân biệt chùa ở núi Sam và chùa ở Kiến Thạnh cũng đồng có một cái tên Tây An, về sau người ta gọi ngôi chùa ở Long Kiến là Tây An Cổ Tự bởi ngôi chùa này lập trước ngôi chùa ở núi Sam.
Đến năm Nhâm Thìn (1952), ông Nguyễn Giác Ngộ cùng anh em đồng đạo các nơi đồng tâm hiệp lực chấn chỉnh trùng tu thành một ngôi chùa rất phong quang, uy nghiêm hùng vĩ như ngày nay. Lễ khánh thành đã cử hành vào ngày rằm tháng Giêng năm Quý Tỵ (1953).
Người ta có thể nói ngôi chùa này là cổ nhất và còn giữ được cách thờ phượng đúng với chơn truyền của Đức Phật Thầy, nghĩa là thờ trần điều, tượng trưng cho lòng bác ái đối với tất cả chúng sanh.
2. Chùa Tây An ở Núi Sam
Từ tỉnh thành Châu Đốc vô núi Sam có 5 cây số ngàn. Khi đi đến ngã ba nơi chân núi, thì trước mặt sừng sững một cảnh chùa nguy nga kiến trúc nửa tân nửa cựu. Trước chùa có một cái cửa chánh có để một hàng chữ nho: Tây An Môn, nhưng ngỏ này không vào ra gì được. Chỉ có cái cửa đề ba chữ Việt: Tây An Tự là vào được mà thôi. Muốn vào chùa, phải bước lên mười nấc thang lót gạch. Vượt qua cửa và vòng hàng rào rất kiên cố là đến sân, ngó qua phía đông có ba ngôi tháp cao vọt khỏi nóc chùa.
Nếu là khách thập phương đến hành hương lần thứ nhất, khi thấy mấy ngôi tháp đồ sộ này thế nào cũng đinh ninh rằng: trong mấy ngôi tháp ấy thế nào cũng có mộ của Đức Phật Thầy. Nhưng người ta đều lầm.
Đó là những ngôi tháp của mấy vị hòa thượng trụ trì từ ngày Đức Phât Thầy tịch trở lại đây. Còn chính ngôi mộ của Ngài thì lại khiêm nhường nằm trên triền núi, ẩn ở sau dãy tháp nguy nga ấy. Ngôi mộ này do thiện nam tín nữ chung nhau tu bổ hồi tháng 6 năm Kỷ Mão (1939). Bên ngoài mộ có một vòng thành bề dài lối 5 thước, bề ngang 4 thước. Ngõ vào có hai cánh cửa, sáng mở ra cho thiện nam tín nữ vào lễ bái, tối đến thì đóng khóa lại. Hai trụ có hai câu đối:
Phách vãng Tây Phương, bật thảo điêu tàn du vị tử
Hồn qui thọ vức, đàm hoa lạc khứ hữu dư hương
Phía ngoài cửa, một bên vách có khắc ba bài thơ bát cú như vầy:
Tây An Phật cảnh cao cung
Nam mô nhị tự chánh liên hoa
Di Đà cứu khổ niệm tam thình
Phật truyền nhân duyên là tâm giải
Khẩn niệm Như Lai Phật độ sanh
Tụng đắc hàng ma trừ yêu quái
Tâm trung tưởng niệm diệc thanh niên
Gia trạch bình an viên côïng niệm
Thường hành tế độ phước lai tâm
Dạ đoản canh sơ, sơ canh trường
Cộng ngâm thị nhã cộng binh trường
Bá vạn thiết thiết tâm mưu vọng
Vạn lý bôn lai sơ hải cường
Quá khứ vị lai thiên cổ tích
Phàm nhơn tụng niệm diệc thành cường
Tâm thường bình đẳng nhân cộng niệm
Cứu khổ tai ương bất ngộ ương.
Lòng ở từ bi đã bấy chầy
Thành nhàn Cực Lạc chốn Phương Tây
Năm hằng đạo đức hàng vui vẻ
Sáu ngả luân hồi chẳng chuyển xoay
Lặn lội theo người xa bể khổ
Dắt dìu cứu khổ bước thang mây
Đã nguyền tế độ cơn lâm nạn
Vì việc nhơn gian mới đến đây.
Tường truyền mấy bài thơ này là của Đức Phật Thầy giáng bút từ lâu, nên được khắc vào đây để làm kỷ niệm. Trước mộ có một tấm bia khắc như vầy:
Nguơn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời chú sanh
Tự Lâm thế gia chư thiên phổ tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng tánh Đoàn, pháp danh Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh chi miễn tọa.
Tịch ư Bính Thìn niên, bát ngoạt thập nhị nhựt, ngọ thời thị tịch diệt.
Mộ không có đắp nấm lên cao như các mộ khác, vì trước khi tịch, Đức Phật Thầy đã di giáo làm như vậy.
Ngoài ngôi mộ, Đức Phật Thầy còn để lại một di tích nữa là cái giếng ở lưng chừng giữa triền núi cách mộ lối 200 thước. Chỗ đó trước kia là một cái khe nước chảy rỉ rả, nhưng từ ngày Ngài khai vét thành một cái ao nhỏ thì quanh năm chứa nước xài không hết. Từ ngày Ngài tịch về sau, có một độ dân chúng xem nó như cái suối ở thành Lourdes bên Pháp. Những người có bệnh đến múc nước ấy, lượm vài lá xoài, lá mít rụng bên mộ Ngài đem nấu uống, thế mà cũng hết bệnh.
Chỉ mới đi vòng ngoài chùa Tây An, người ta đã gặp bao nhiêu di tích của Đức Phật Thầy. Ai cũng tưởng đi vào phía bên trong chùa, thế nào cũng còn thấy nhiều bửu vật của Ngài nữa. Nhưng người ta không khỏi ngạc nhiên khi bước qua khỏi ngưỡng cửa, thấy trong chùa thờ la liệt những tượng cốt khác hẳn những nghi thức thờ phượng mà Ngài đã truyền lại ở Tây An cổ tự. Càng ngạc nhiên hơn nữa là ngày cũng như đêm, trong những thời khóa tụng, vang lên những tiếng mõ, đọc tụng ó la.
Đứng trước cảnh tượng ấy, người hiểu đạo của Đức Phật Thầy băn khoăn tự hỏi: Sao người ta nói chùa này là chùa chánh của Đức Phật Thầy mà lại nghi thức thờ phượng không trần thiết đúng với chơn truyền?
Từ ngày Đức Phật Thầy tịch, chùa Tây An hoàn toàn thuộc về phái Lâm Tế do sư cụ Nguyễn Nhứt Thừa Trụ trì. Về sau sư cụ được thăng lên chức hòa thượng và tịch vào năm Giáp Thân tức là năm 1884, thọ 50 tuổi. Tháp của ông rất lớn, nằm kế bên chùa.
Người thứ nhì thừa kế sư cụ Nguyễn Nhứt Thừa là sư cụ Nguyễn Văn Khiêm, pháp danh Hoàng Ân cũng là một nhà sư Giác Lâm phái lên. Sư Hoàng Ân tịch năm Giáp Dần (1914), nghĩa là trụ trì được 30 năm.
Khi sư cụ Nguyễn Văn Khiêm tịch thì trưởng tử là Nguyễn Trang Nghiêm, pháp danh là Huệ Quang lên thay thế. Rồi tiếp đó là ông Nguyễn Thuần Hậu ở Hà Liên được mời về trụ trì. Sau ông Hậu thì ông Ngô Văn Hòa ở tại chùa từ nhỏ được đưa lên kế vị. Lúc thiếu niên, ông được đưa lên Sài Gòn học tập. Người thứ sau, cũng là người chót, hiện nay còn sống là ông Nguyễn Văn Mật, pháp danh Bửu Thọ, đệ tử của sư cụ Nguyễn Văn Khiêm từ nhỏ đến lớn, năm nay ông được sáu mươi ngoài tuổi.
Cứ xem đó đủ thấy chùa Tây An từ hồi Đức Phật Thầy tịch cho đến nay, các nhà sư của phái Lâm Tế liên tiếp nối nhau trụ trì.
Mặc dầu Đức Phật Thầy đứng ra xây dựng, nhưng vì nó mang phải cái danh hiệu là chùa công được triều đình nhìn nhận, mà Ngài không được tự do tổ chức việc thờ phượng đúng với pháp môn hành đạo của Ngài.
Có phải vì thế mà Ngài vào làng Thới Sơn dựng lên một cảnh chùa theo ý muốn mà Ngài gọi là trại ruộng để tránh sự can thiệp của nhà cầm quyền đó chăng?