THƠ CỦA TÔI
ĐÃ CỨU SỐNG TÔI
VI ANH
Thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ tình có thể nói hay nhứt Việt Nam trong thế kỷ 20,đã qua đời ở Thanh Hóa, hưởng thọ 95 tuổi. Cuộc đời của thi sĩ Hữu Loan là một tấm gương nhân bản, khai phóng nhưng dũng cảm và bất khuất CS, của người trí thức VN và là một bản án chung quyết về tội ác CS Hà nội đã làm đối với người thi sĩ.
Thực vậy.
Một,cuộc đời thi sĩ Hữu Loan là một tấm gương nhân bản, khai phóng nhưng dũng cảm và bất khuất CS, của người trí thức VN. Thời TS Hữu Loan ra đời, vào năm 1941, 22 tuổi đã đậu Tú Tài đôi Pháp, Ông có thể có một đời sống “sáng săm banh, tối sữa bò” nếu ra làm việc cho thực dân. Nhưng Ông không, chỉ đi dạy học tư, có khi chỉ làm gia sư (précepteur) để sống đấp đổi thôi. Sau đó đáp lời sông núi Ông tham gia phong trào Việt Minh để chống Pháp. Chức vụ cũng khá quan trọng, ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hoá, cán bộ quân sự cao cấp, Ông có thể trở thành một cán bộ CS có chức có quyền ít ra cũng như Tố Hữu vì những người như Trường Chinh, Phạm văn Đồng ăn học có hơn gì Ông đâu. Họ chỉ giỏi chịu sự thuần hoá của Đảng CS. Còn Ông thì uy vũ bất năng khuất và luôn luôn giữ tròn tính nhân bản, khai phóng và dân tộc của mình.
Ông không thể chấp nhận bày tỏ tâm tình đau khổ của mình là mất tính đảng, bị CS cho là ủy mị vì trong thơ theo CS phải có sắt máu đấu tranh. Ông chứng kiến tận mắt những vụ đấu tố, thấy sự đảo lộn của đạo lý luân thường, ông bất đồng chánh kiến với CS và bất mãn về đường lối cai trị của đảng nên bỏ ngũ, bỏ đảng về quê.
Ông kể “lúc làm chính trị viên của tiểu đoàn, có một địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của Ông thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Thế rồi, một hôm có tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.”
Ông chống “chính sách độc tài, chống bọn bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Ông chống văn hóa nô dịch chỉ biết ca tụng. Ông muốn “thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi”. Và Ông bị CS kềt tội phản động cùng với nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” đòi tự do sáng tác, bị đẩy thành một vụ án văn học, rồi thành vụ án chính trị. Nhiều văn nghệ sĩ bị thanh trừng, treo bút, bắt đi lao động, cải tạo, tù đày, Ông bị quản thúc tại quê nhà, và cấm không được liên hệ với ai.
Theo lời Ông kể “Năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được!”
Hai, cuộc đời của thi sĩ Hữu Loan là một bản án chung quyết về tội ác của CS Hà nội đã làm đối với người thi sĩ và các nhà văn chân chính. CS tách Ông ra khỏi xã hội và bao vây kinh tế Ông. Từ một người trí thức, thi sĩ đi đốn củi, xúc tép, đục đá, kéo đá để sống qua ngày với gia đình 10 đứa mà CS cũng không để Ông yên. Ông vẫn bị gây cản trở, và luôn bị theo dõi. Ông kể ”tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.”
Ba và cuối cùng, cuộc đời của thi sĩ Hữu Loan là một bài học cho người trí thức VN về chế độ CS Hà nội. “Hồng vẫn hơn chuyên” là luật bất di bất dịch của tổ chức CS. CS chỉ dùng trí thức khi đã thuần hóa thành “trí thức sinh nhai,” chớ không bao giờ dùng trí thức như người có lý tưởng, có suy tưởng, có niềm tin và đấu tranh cho niềm tin cuả mình và chia xẻ niềm tin ấy cho người khác. Đối với CS, ai không theo Đảng là kẻ thù của Đảng, Đảng sẽ triệt hạ bằng mọi cách.
Người có tài thơ thiên phú, ăn học cao trong thời kỳ CS cần người để chống Pháp, chống Mỹ và tóm thâu cả nước mà CS còn dùng cả một guống máy định cán nát, thì CS Hà nội bây giờ đang có quyến lực trong tay có coi ra gì những trí thức trẻ ở trong hay ngòai nước. Xin cho chưa chắc CS đếm xỉa huống hồ đối thọai, trao đổi, bàn luận, xây dựng với họ.