BIỂN ĐÔNG CHƯA LẶNG SÓNG
VÌ THÁI ĐỘ THÁCH THỨC
CỦA TRUNG CỘNG
+Từ Hội nghị Quốc Phòng Việt- Mỹ, Hội nghị Quốc Tế An Ninh Hàng Hải Biển Đông đến Hội Thảo An Ninh Biển Đông tại Hoa Thịnh Đốn Mỹ chưa có thái độ cương quyết đối với Trung Cộng tại sao?
+Trung Cộng đưa tàu Hải tuần 31 đến Singapore gây bất bình cho Quốc gia nầy và các nước Đông Nam Á
NGUYỄN HƯƠNG NHÂN
Trong vòng ba tuần lễ, Hoa Kỳ đã đứng ra tổ chức 3 cuộc Hội thảo quan trọng tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn liên quan đến tình hình đang sôi động tại biển Đông giữa Trung Cộng, Việt Nam và một số nước Á Châu như Phi Luật Tân, Singapore, Malaysia, Brunei. Tuy nhiên nội dung cả 3 cuộc Hội thảo nầy không đưa ra thái độ xác quyết về hành động thách thức của Trung Cộng đối với Cộng đồng Quốc Tế về vùng biển Đông sau khi Trung Cộng đưa tàu Hải tuần 31 đến Singapore với mục đích: Theo dõi các tàu thuyền “Lạ” di chuyển trong khu vực biển Đông (bao trùm 1,7 triệu km2 theo bản đồ Lưỡi bò của họ công bố năm 2007). Tàu Hải tuần 31 có sức trọng tải 30, 000 tấn có sân bay trực thăng. Trong cuộc hải trình từ Quảng Đông đến Singapore dài 8000 hải lý tàu Hải tuần 31 không gặp bất cứ cản trở nào, ngoại trừ một chiến hạm của Hải quân Mỹ thuộc hạm đội 7 Thái Bình Dương bám theo đến nơi và neo tại Quân cảng Singapore (Mỹ đã hợp đồng thuê Quân cảng tại vịnh Subic của Phi).
Cuộc Hội thảo An Ninh Quốc Phòng Việt Mỹ lần thứ 4 kết thúc hai nước đưa ra một Thông cáo chung với lời lẽ theo khuôn sáo ngoại giao như: Các bên cần tìm một giải pháp Ngoại giao cho cuộc tranh chấp biển Đông hiện nay. Hoặc: Hoa Kỳ khuyến cáo các bên tránh đụng độ bằng vũ trang. Hoa Kỳ cỗ vũ các giải pháp hòa bình tại biển Đông qua một diễn đàn đa phương. Qua đó, các nước có tranh chấp tại khu vực nầy cần phải tuân thủ các Công Ước Quốc tế về Luật biển Liên Hiệp Quốc. Một số Nhà Lập pháp Mỹ như: TNS Jim Webb, Chủ tịch Tiểu Ban Đông Nam Á Thái Bình Dương Sự Vụ ( Chair Subcommittee on East Asian and Pacific Affairs) thuộc Ủy ban Đối Ngoại Thượng viện. TNS Cộng Hòa James Indofe, cả hai vị nầy đã đệ trình Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện chứ không phải chỉ bằng ngôn ngữ Ngoại giao mà thôi.
Hai cuộc Hội thảo kế tiếp cũng liên quan đến Biển Đông như: An Ninh Hàng Hải và An Ninh Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến Lược Quốc tế tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn đứng ra tổ chức quy tụ nhiều học giả nhiều nước tham dự và đọc tham luận. Tại cuộc Hội thảo An Ninh Biên Đông, một học giả Trung Quốc là Trung Hảo đọc tham luận nêu ra lý lẽ rằng: Trung Quốc đã có tài liệu chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, thuộc chủ quyền Trung Quốc từ hai ngàn năm trước (?) Luận cứ của người “Học giả” nầy không vững chắc vì thiếu chứng cứ. Cả hai quần đảo trên chỉ cách đây 300 năm tức thế kỷ 18 không có người Trung Quốc nào trú ngụ. Vào thế kỷ thứ 18 Vua Minh Mạng Việt Nam đã ban Sắc chỉ cho một đội quân đồn trú tại Hoàng Sa. Sắc chỉ nầy hiện do một ngư phủ trú tại đảo Lý Sơn Tỉnh Quảng Ngãi giữ. Điều nầy cho thấy rằng Nhà “Học giả” Trung Quốc Trung Hảo chỉ nói càng, nói bậy mà thôi. Hơn nửa đảo quản lý từ thế kỷ 15 tức thời kỳ Nguyễn Hoàng tách rơi Nhà Lê vào Nam lập nghiệp, khai phá trường sơn, hải đảo mở rộng bờ cõi cho đến khi Nguyễn Phúc Ánh (Hoàng đế Gia Long) thống nhất bờ cõi vào giữa thế kỷ 18. Chỉ mới đây vào khoảng năm 2000 Trung Cộng biết được dưới lòng biển Đông có trữ lượng dầu hỏa khổng lồ lên đến gần 200 tỷ thùng dầu thô thì mới nẩy sinh ra lòng tham muốn chiếm đoạt nên vẽ bản đồ “Lưỡi bò” bao trùm 80% diện tích biển Đông với 1,7 triệu cây số vuông.
Tại cuộc Hội thảo An Ninh Biển Đông nầy, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Neugbonte lên tiếng yêu cầu các bên liên quan đến tranh chấp chủ quyền biển Đông không được sử dụng vũ lực đối đầu nhau mà phải tìm ra một giải pháp chính trị, ngoại giao để giải quyết tranh chấp. Qua 3 cuộc Hội thảo có tầm cỡ Quốc tế nầy do Hoa Kỳ đứng ra tổ chức ngôn ngữ được sử dụng hoàn toàn khác hẳn ngôn ngữ mà Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói một cách chắc nịch tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng ở Hà Nội tháng 7 năm 2010 rằng: “Hoa Kỳ có nhiều quyền lợi Kinh tế chính trị tại Đông Nam Á, do đó Mỹ không thể nào làm ngơ trước những biến động tại vùng nầy. Hoa Kỳ đã có mặt tại Đông Nam Á từ 100 năm nay. Hơn nữa, biển Đông là tuyến hàng hải quốc tế lưu thông tự do không bất cứ nước nào có quyền ngăn cấm hoặc gây khó khăn cho tàu bè qua lại tuyến Hàng hải Quốc tế nầy. Ngoài lời tuyên bố như đinh đóng cột của bà Hillary Clinton, Đô Đốc Robert Wilard, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương có mặt tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng cũng khẳng định rằng: Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương sẽ không ngồi yên để tình hình biển Đông trở nên bất ổn.
Mặt khác Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tại Hội nghị nầy cũng đã lên tiếng cho biết: Hải quân Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ an toàn cho tuyến Hàng hải Quốc tế lưu thông từ Đông sang Tây trong khu vự 10 Quốc gia Đông Nam Á. Thế tại sao ngày nay Hoa Kỳ lại xuống giọng không còn hăng hái sau cuộc đàm phán Quốc phòng cấp cao giữa Mỹ và Trung Cộng tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn vào tháng 3 năm nay (3/ 2011) ? Phải chăng Mỹ và Trung Cộng đã thỏa thuận với nhau về một sách lược “Chia để trị”? Đứng trước các sự kiện nầy dư luận chợt nhớ lai: Tháng 12 năm 1978 Đặng Tiểu Bình đi thăm Hoa Kỳ được Tổng thống Jimmy Carter đón tiếp trọng thể sau đó họ Đặng đã ra lệnh huy động 10 Sư đoàn quân Trung Quốc vào ban đêm mở các cuộc tấn công như vũ bão vào 6 Tỉnh miền Bắc Việt Nam, phá sạch đốt sạch, tàn sát sạch, hơn 30, 000 ngàn dân đã bị giết trong đó có trẻ con đàn bà. Trên 60 giếng nước bị lấp bởi xác người đa số là phụ nữ trẻ con. Tại một cuộc Hội nghị ở Saigon năm 1980 Nguyễn Thanh Nghị với tư cách Bộ trưởng Kinh tế phải than rằng: “6 tỉnh biên giới của nước ta hoàn toàn bị phá sạch, đốt sạch, giết sạch phải mất 50 năm mới xây dựng lại được... “ .