GIỚI THIỆU
“HẠT BỤI NÀO BAY QUA”
CỦA THÁI TÚ HẠP
GS. VŨ KÝ
Thực là một điều hiển nhiên vô cùng khi nói rằng mỗi con người Việt Nam nhất là mỗi người Việt Nam ly hương chúng ta là một nhà thơ. Có người giữ thơ ở trong lòng. Có người cố dồn nén rồi cuối cùng hướng ngoại diễn xuất thành tình ý rưng rưng và cảm xúc rộn ràng trào trên mặt giấy.
“Hạt Bụi Nào Bay Qua”, một thi phẩm xinh xinh màu bìa xanh biếc của nhà thơ Thái Tú Hạp chuyên chở nào mưa tình gió ý gợi cho độc giả mười phương nhiều suy tư xác thực điều ghi nhận nói trên, khi ta ngâm nga các vần điệu đắc thế của nhà thơ họ Thái:
...tình nhung nhớ cũng phù vân
cành trơ lá úa chiều lang bạc này
ta còn hiu hắt ta đây
đời trăm ngõ trúc sầu ray rứt hoài...
(Cánh Hạc Nội Thành)
...em cách biệt như vầng trăng thần thoại
giòng sông xưa về ngủ muộn tương tư
ta cánh hạc rong chơi từ vô hạn
em có nghe mùa động gió rừng thu
(Vầng Trăng Thần Thoại)
”Đánh dấu những tư duy trên mấy dặm trường trầm mặc xót xa - Như nhà thơ đã viết - ...Cuộc hành trình của mây đang chuyển hóa thành sông đổ về cố quận... tất cả chỉ còn lại ngôn ngữ của thế giới thi ca...” cả một trời tâm tưởng e ấp trong lời, trong nhạc từ nền thi sử cổ xưa đến cận kim hiện đại, có, có một ít đó đây của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Tản Đà đến Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Quang Dũng... ”Hạt Bụi Nào Bay Qua” có rất nhiều mầu sầu úa của ký ức đăm chiêu với hoài niệm rã rời qua hình tượng nghệ thuật cực kỳ bóng bẩy chọn lọc theo mỹ cảm của nhà thơ... nào nhớ thương không nguôi về quê mẹ biền biệt ở phương trời với
...chuyện ngày xưa thuyền vui Cửa Đại
trăng Thu Bồn khua mái đò ngang
em Bàn Thạch lá chiều tha thướt nắng
bờ Cẩm Kim tre lả ngọn thu vàng...
...dẫu ngàn thu ánh trăng soi Phố Hội
Khổng Miếu còn thanh thoát nét Đường Thi?
Núi Non Nước - Động Huyền Không khói quyện
miền quê hương có Ngũ Phụng Tề Phi
tôi sẽ về thăm Chùa Cầu lưu luyến nhớ
nghe tiếng gà trưa gáy Cẩm Phô
hoa phượng vỹ thuở tình yêu mới chớm
chim trong vườn Viên Giác hót líu lo...
(Tôi Sẽ Về Thăm Quảng Nam)
Rõ đúng là một tâm hồn du mục khắc khoải về nguồn, với Rừng Quế Tiên nồng say tình nghĩa với chiều thoảng tiếng chim kêu trong ghềnh núi...
...ba năm con đường cũ
rừng bỗng thấy xác xơ
cây và người khô héo
sầu hận giống như nhau
Quế Tiên, rừng gục đầu
chiều mưa giăng trên mộ
tiếng chim xưa về đâu
rừng thu nghe hoang vắng...
(Chiều Nhớ Rừng Quế Tiên)
Để rồi:
mai tôi về ngõ quê chiều hoang vắng?
Sài Giang trôi hiu hắt lời kinh
Hội An sầu trăm năm thầm lặng
đời đi qua như hạt bụi phù vinh
Cái nền tình cảm trong thơ họ Thái là những giọt sương chiều triền miên của hoàng hôn ký ức, là những mảnh hồn thi nhân từ quá khứ lây lất đó đây chưa một lần tìm ra hiện tại nơi viễn xứ lưu đày để lắng đọng nỗi buồn quê cũ đầy dư ảnh, dư âm nhạt nhòa:
...trái tim thời mộng mị
cất dấu trong hồn những kỷ niệm ấu thơ
trang sách ước cùng đóa hoa hồng dại
giữa thành phố cổ tích rêu xanh
mái ngói âm dương hò hẹn
em vẫn hiền hòa
như dáng núi hình sông
tóc thổi bay thơm dàn hoa thiên lý
con bướm vàng ve vãn tình si
bây giờ thôi đã hết
bầy hạc rong chơi phù ảo ngàn xa
cành trúc đào vẫn đong đưa trong gió
cánh hoa ngọc lan vẫn thơm ngát hương nồng
hoa sứ trắng nở rộ trong sân chùa tịnh vắng...
Nhà văn Nga Ilya Zhrenboung nói quá đúng: ”Người ta rất sai lầm khi nói rằng thời gian rồi sẽ chữa lành các vết thương, nhưng không, thình lình có lúc nào đó, những vết thương lòng xưa cũ trổi dậy, tê buốt hơn bao giờ hết và chỉ có thể chấm dứt khi con người đem theo xuống nấm mộ”. Đối với những tâm hồn lưu vong văn nghệ sĩ chúng ta, kinh nghiệm nói trên của văn hào Nga là một chân lý đó vậy.
Có khi vụt nổi lên trong tưởng tượng bất bình thường của thi nhân một loạt sóng dậy trùng dương ngập tràn hình tượng vui tươi nhảy múa nhưng rồi đâu đấy vẫn thấp thoáng bóng trăng tịch liêu vờn trong ảo giác lạ kỳ:
...buổi sáng ta lên non
non cao nghìn trượng
ta lùa mây trong áo
để tìm suối tóc em
buổi chiều về đá phủ
khe suối nẩy mầm lan
ta về ôm mộng
thời xưa xuân chưa già với tuổi
ta cùng em hái đóa phù vân
trong khu rừng
thiên thu trầm mặc
đùa với nhau suốt giữa ngàn trăng
bỏ quên đời u muội
đêm còn lại tiếng dế mèn
tiếng trở mình nhựa căng trong từng hơi thở lá...
(Ảo Giác)
hoặc hồn bay lên mây trời ngàn năm phiêu bạt lấp lánh ”vầng trăng thần thoại ngủ giữa mùa xuân thiên đường nào đã vỡ tan trong nội tâm rên xiết”:
...đem mưa về trên mái lá yêu thương
sông núi vẫn hằn in trong trí tưởng
đời quạnh hiu như mây trắng bay qua
kiếp ly hương nuôi sầu trong thạch thất
em có bao giờ chia xẻ nỗi niềm ta?
(Vầng Trăng Thần Thoại)
Trên văn thi đàn quốc tế hiện tại, tưởng không có nhà thơ văn nào ”NHỚ” rồi ”NHỚ THƯƠNG” đến biến thành một căn bịnh tâm thần nghệ sĩ thường trực như những nhà thơ Việt ly hương tẩu quốc... Nào nhớ cảnh cũ người xưa, tình lỡ, thề phai, ẩn chứa trong Từ Lúc Bỏ Hoàng Cung, Bên Hồ Than Thở, Đá Soi Nhật Nguyệt, Đêm Ở Quê Người, Trăng Sầu Viễn Xứ...
Cũng trong nỗi niềm nhớ thương khắc khoải ấy của thi nhân chuyển hóa thành một sự kiện tâm linh mầu nhiệm mà chủ thể là tác giả hòa đồng với khách thể là đối tượng có vô số đối tượng nhộn nhịp trong lòng! đến nỗi không còn biết ai đã nhớ thương ai nữa mà một thi tài lãng mạn Pháp là Lamartine đã nức lên lời than thở:
Objects inanimés avez Vous donc une âme
Qui s'attache à notré âme et la force d'aimer (Lamartine)?
Tạm dịch:
Hỡi những vật vô tri vô giác, các ngươi có linh hồn hay không
Mà quyến luyến lấy linh hồn ta và giục ta đến phải yêu đương...
Rồi Nguyễn Thùy, một nhà văn nhà thơ hiện đại luôn luôn suy tư về lẽ phế suy tàn úa của mọi sự vật trên đời hư ảo cũng trầm ngâm bằng những vần điệu rất hay đầy giọng ”Cung oán ngâm khúc” tân thời:
Ôi!
Hỡi những người tôi nhớ tôi thương
Ngõ tình ngõ ý miên trường gọi nhau
Cùng trong thế kỷ thương đau
Trắng tay tay trắng, tim dàu lời tim
Lục tung ký ức ra tìm
Hình xưa bóng cũ nỗi niềm tâm tư
Bây giờ đôi ngã thực hư
Bờ kia bên nọ thuyền như lạc dòng
Nhưng trời vẫn buốt vào đông
Vẫn hè nắng cháy, thu vàng, xuân sang
Thì dù ngõ ý hoang mang
Ngõ tình vẫn một nồng nàn tiếng xưa
Nhớ bao nhiêu nhớ cho vừa
Nhớ bao nhiêu nhớ mắt mưa lệ hồng
Ai đem nhốt sáo vào lồng
Để cho sáo tắt tiếng lòng sáo ơi!
Bao giờ sáo lại rong chơi
Non xưa nước cũ đất trời bên nhau...
Còn nhà thơ họ Thái chúng ta, nhớ về cố đô nghìn năm cổ kính qua thi tứ trầm buồn, hình tượng tàn phai phải chăng là một xúc cảm thông lệ đối cảnh sinh tình, khi người tình thuở nọ chờ đợi trước cửa Hoàng Cung chỉ là một giai nhân lý tưởng muôn đời? hay một nàng tôn nữ ánh mắt sóng Sông Hương, suối tóc giọt dài mưa Vĩ Dạ, đã hiện thực lên ngôi hoàng hậu trong lòng kẻ thư sinh si tình xứ Quảng? Có tất cả các giấc mơ kỳ diệu ấy trong những vần điệu đầy ẩn tình thú vị sau đây:
...chiều có nhớ mây về trên đỉnh Ngự
giòng sông Hương hờ hững bóng trăng sầu
em đứng đợi tám cửa thành hoang vắng
nghe từ tâm cánh hạc vút xa bay
hàng cây khô Nội Thành câm lặng khóc
lệ của trời hay Tôn Nữ chờ mong
loài hoa dại trong vườn thu Thượng Uyển
người đã quên từ lúc bỏ Hoàng Cung
đêm nín thở bờ sông lên tiếng hát
lời Nam Ai cắt ruột não nề đau
ta đã mất quê em từ dạo đó
đôi bàn tay chiều rụng gió Kim Long
thời gian ơi! thổi về mây Cửu Đỉnh
như giọt trăng trên tháp cũ điêu tàn
em có biết lời thơ đầy mật ngữ
đời trôi tan như bóng nắng vô thường...
(Từ Lúc Bỏ Hoàng Cung)
Thực tuyệt bích, những vần điệu trên, tràn đầy tâm cảm thương tiếc xót xa, mối vương triều quí tộc biến thành một nghệ thuật mỹ miều, bao nhiêu tình tự thiết tha vương vấn nhà nghệ sĩ trong một vòm trời hoang tưởng!
Do đó, toàn thi phẩm ”Hạt Bụi Nào Bay Qua” trừ bài đầu van vỉ ”Xin Người Hãy Quên” (cũng vẫn là dạt dào nỗi nhớ!) đều là một trường ca sầu hận của kẻ bị bắt buột phải ra đi! không biết bao giờ trở về! để rồi chừ đây ”dạo phố người”, nhìn ”trăng viễn xứ” ngắm ”sao khuya” nghe ”tiếng chiều xưa” rót ở ”đêm quê người” mà nhớ, nhớ triền miên, từ ”nhớ mẹ”, từ ”nhớ nhà trong cơn mưa lũ”, khi dạo buổi chiều ”qua đồi liễu quán” hoặc ”dặm ngàn tịch lặng” để cuối cùng ”nhớ lại suối nguồn” mang mang tình nguyên thủy.
Còn có vô số những mảng thiên nhiên rõ ràng không ánh sáng nhạt nhòa một tâm hồn luôn mơ về dĩ vãng trong một tâm thức cá nhân tê dại:
...tình ta đẫm lá mưa ngâu
xác thân hữu hạn hoen màu tương tư...
...giữa chiều xanh cỏ lá thơ ngây
bên khóm tường vi trước cổng...
Cảm xúc ấy triền miên chìm sâu trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi về mảng hồn quê giống như Lý thi hào thuở nọ qua ”Ức Đông Sơn” hồi nào:
Bất hướng Đông Sơn cữu,
Tường vi kỹ độ hoa
Bạch vân hoàn tụ tán
Minh nguyệt lạc thùy gia
(Lý Bạch)
Tạm dịch:
Lâu ngày không viếng non Đông
Tường vi mấy độ đâm bông nẩy chồi
Hợp tan mây bạc còn trôi
Trăng ngà thuở nọ lạc soi nhà nào?
(Vũ Ký)
Cổ thị Hội An với mái nhà cong cong, với khung trời Khổng Miếu, với con đường hẹp, là đối tượng yêu thương thường trực của một mối tình hoài cổ dai dẳng trong cảnh miên trường vắng thiếu cố hương. Giữa nhiều rối bời của kỷ niệm nào Chùa, nào Phật, cánh hạc trắng là hình ảnh thương yêu của miền lưu luyến cũ mà nhà thơ họ Thái nhắc hoài như một điệp khúc phảng phất đâu đây cảnh Hoàng Hạc Lầu thuở nọ với chút hương thơm nhẹ thoảng của thơ Đường chuyền về từ dĩ vãng:
nào:
”Em như cánh hạc nội thành sương khuya...
...Dấu xuân hạc trắng xa ngoài mắt sông...
...Nghe từ tâm cánh hạc vút xa bay...
nào:
...Mùa xuân dấu hạc Phương Đông
Sỏi quen giọng suối - núi mong mỏi chờ.
...Hồ Tịnh Tâm hương sen còn quý tộc
Trăng Nội Thành cánh hạc lướt như tranh
...Tha hương đầu núi tuyết
Cuối mây hoa đào rơi
Tri âm như cánh hạc
Vút qua mấy ngàn khơi...
(Phương Xa)
Bừng tỉnh nghe rót vào tâm tư cảnh ”tây trúc ngàn dặm xa” (một thoáng phù vân) với sắc màu hư ảo của vạn vật vô thường:
thăm thẳm hồn cố hương
núi sông đầy ẩn tích
em mắt sầu đông phương
tang thương vừng nguyệt úa
hạt bụi nào bay qua
đất trời khuya huyễn hoặc
còn gì trong sát na...
...như trái tim trong căn phòng cổ tích
chút quen thân từ cõi tiềm thức hoang vu...
...ta không muốn sơn phết ngôn ngữ tình yêu
như đánh bóng chiếc lư đồng đã cũ
ta không muốn thêm những lời giả dối
trong trái tim đã già nua
nửa thế kỷ hoang vu
trong cuộc đời u minh mộng mị...
Ngâm nga rất thú vị những vần thơ tâm tưởng trên đây của nhà thơ họ Thái, liên tưởng nào giục tôi gợi nhớ xa xưa nơi tiền triều thuở ấy với thi tài Bạch cư Dị diễn cảnh Đường Minh Hoàng thắm thiết nhớ Dương Quí Phi khi trở về cung điện nguy nga đối diện cảnh cũ, bóng hình xưa thương quí:
Cùng là một Trường hận ca, với một ngôn ngữ tâm tình duy nhất, dù ngôn ngữ thời đại có đổi thay:
...Quy lai tri uyển giai y cựu
Thái dịch phù dung Vị Ương liễu
(Bạch Cư Dị)
tạm dịch:
...Cảnh xưa dương liễu phù dung
Vị Ương, Thái dịch hồ cung vẹn mười
(Tản Đà)
để rồi:
Tịch diện huỳnh phi tứ liễu nhiên
Cô đăng phiêu tận vị thành miên
Trì trì chung cổ sơ trường dạ
Cảnh cảnh tĩnh hà dục thư thiên
(Bạch Cư Dị)
Dịch:
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đèn khêu đã cạn dầu
Khó thay giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
(Tản Đà)
Và cuối cùng, đây là một bảng trần tình rất trung thành với cảm thức biến hóa của nhà thơ họ Thái, có thể xem như một công trình phân tâm ngắn gọn của chính mình qua những vần điệu điêu luyện mà dồi dào truyền cảm trong thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua...
Cám ơn người
Cám ơn em
Cám ơn bằng hữu
...Đã hơn một lần cho ta nghe lại tiếng mưa ở quê nhà. Tiếng chim ở đầu núi. Tiếng nắng chiều bên sông. Tiếng thở của đá. Tiếng trầm lắng nham hiểm của biển xanh. Và tiếng đời đen bạc phù vân.
Chính những tình cảm ngọc ngà chân thực đó đã đánh thức ta qua cơn ô nhiễm sầu muộn ly hương.
Thái Tú Hạp
Nhà thơ đã chiêm nghiệm cuộc đời như sợi khói hắt hiu buồn thảm bay qua cuộc đời đầy hoang vu:
...đời buồn mai thức dậy...
...đời buồn một thoáng phù vân...
để rồi ”Chợt ngộ”
em cười như nụ hoa
trong mai tâm Bồ Tát...
Và khác với mọi văn nhân, nghệ sĩ, nhà thơ Thái Tú Hạp bắt đầu hành trình con tim vấn vương thương mến từ ngưỡng cửa êm đềm của niềm gia thất cá nhân, với cảnh ra đời đầy hạnh phúc của ”Cynthia yêu dấu của Ba”:
con đã hiện hữu với đời
trong cùng đêm ánh sáng...
...như huyền thoại diệu kỳ...
...con đã ra đời trong đêm Giáng Sinh...
cho dù tên con Cynthia
hay là gì đi nữa
con vẫn là cô gái Việt Nam...
đến: ”Mùa Xuân Yêu Em” dành tặng Ái Cầm:
mùa xuân từ độ bao dung
tiếng chung thủy ở...tiếng đường mật vui...
tiếng hờn ghen. Tiếng ngậm ngùi
tiếng đau dao cắt. Tiếng mùi mẫn yêu...
Nhà thơ nhắc đến người bạn đời với muôn ngàn trọng hậu, luyến ái, biết ơn...Ngoài chữ tình, còn có cái nghĩa khắng khít đến thiên thu và chỉ có cái nghĩa ấy mới đúc kết thành cái nền cẩm thạch cho tình yêu dịu vợi mênh mông hơn nữa...
Thi nhân họ Thái cảm thấy hơn bao giờ hết, chỉ trong những phút cực kỳ nghiêm trọng của cuộc đời mình, người mới thấu rõ cái nhìn ngập trong nước mắt của vợ hiền đối với mình là chân tình, là lâm ly và cái đưa tay yếu đuối của vợ để cứu mình hay cùng mình xây dựng hạnh phúc gia đình trong cơn đại biến là vô cùng quý giá, là nét đẹp một cách ảo não, bi hùng!
...lúc khuya sớm thuở quê nghèo
lúc chinh chiến lửa phận treo tuổi mình
lúc ngã ngựa, khi tàn binh
lúc non cao vẫn trọn tình thăm nuôi
trùng dương u thảm phận người
quẩn quanh hải đảo tiếng cười đắng cay...
Bài ”Vẫn Yêu Em, Mùa Xuân” là một tình tự ca xuất sắc nhất của thi phẩm. Ở nhiều sáng tác khác, ta thấy nhà thơ đã hướng tâm trí về nơi phương trời quê hương yêu dấu để tự trách thầm nỗi biệt ly đau đớn:
em có biết không
mùa xuân đã trở về...
...em có biết không
lâu rồi ta mới nghe tiếng chim hoàng oanh hót
lâu rồi ta mới nhìn lại cánh mai
những nụ hoa cải vàng
nhữn con bướm bay chập chờn
trong trí tưởng thơ ngây
con suối mùa xuân thở ngọt
đôi mắt em hiền dịu phương đông
lâu rồi ta mới về thăm ngôi nhà cũ
những con nhện tỏ tình dưới mái hiên dĩ vãng
những tấm liễn thép vàng xưa huyền hoặc
hoen mờ rêu mục dấu thân yêu
loài mọt đêm ngày rả rích
khung cửa chiều tia nắng dọi ngậm ngùi
Thỉnh thoảng ở nhà thơ loé sáng chút tình chiến sĩ nhớ về người dũng sĩ nặng mang lời thề sông núi thuở nào:
...tôi vẫn nhớ về anh
người tù binh dũng liệt
trái tim vẫn nguyên trinh
giữa gông cùm đốn nhục
hồn ngọc vẫn tinh anh
giữa đọa đày địa ngục
anh như lá rừng xanh
giữa hồn xuân nhân loại
tôi vẫn nhớ về anh
niềm tự hào dân tộc
như ánh sáng bình minh
rạng ngời trong đêm tối
đêm Việt Nam hờn căm
thét gào trong vực thẳm...
(Người Tù Binh Dũng Liệt)
Rồi Người thơ mơ ước khúc ca hồi hương dựng trên văn hóa Việt xa xăm thời tiền sử:
...chúng ta về
dạo giữa vườn xuân Nguyễn Du
câu bên bờ ao thu Nguyễn Khuyến
dựng căn nhà thơ trên đất Mẹ Âu Cơ
trang sử rạng ngời tương lai mới
chúng ta về quê hương
như loài chim di tìm nắng ấm
qua một mùa đông u ám hãi hùng
phải trở về đất hứa
trên chiếc tàu nhân ái Việt Nam
những bước chân dập dồn như tiếng trống đồng
của thuở nào dựng nước
tiếng hát thênh thang giữa biển rừng...
Nhưng không, đó chỉ là một giấc mơ chưa hiện hữu. Và rồi không chỉ có thế, điều dễ truyền cảm sâu xa ở nhà thơ mà người thưởng thức thi phẩm hết lòng quý trọng, sợi chỉ vàng với kết nguồn thi hứng sáng tạo hồn nhiên của thi nhân chính là nỗi lòng với mảnh đất quê hương nghèo mà dũng cảm, ”văn hiến” có thừa, thi nhân diễn xuất chân thành qua những vần điệu điêu luyện thắm thiết vàng son hoài cổ:
...dầu ngàn thu ánh vàng soi phố Hội
Khổng Miếu còn thanh thoát nét Đường thi
Núi Non Nước, Động Huyền Không khói quyện...
và nhất là:
Miền quê hương (tôi) có Ngũ Phụng Tề Phi...
(Tôi Sẽ Về Thăm Quảng Nam)
Người giới hiệu với nhà thơ là bạn đồng hương nên mới xúc động và hãnh diện truyền thống về nước non Đất Quảng hòa đồng trọn vẹn. Rưng rưng những bùi ngùi là chung nhất, và từng giây thần kinh, từng thớ thịt của con tim quặn thắt khi chừ đây chúng ta đang đi trọn vẹn thân phận kẻ ly hương chưa biết đến bao giờ...!
Rõ thực là một di tích tâm linh tiền bối:
...Lạc quốc hồn đau hoen dấu sử
hoang tịch kinh thành bóng đỗ quyên...
(Thái Tú Hạp)
Bỗng nhiên tôi liên tưởng đến một tài hoa văn học xuất chúng của chúng ta vào thế kỷ trước:
Cung miếu triều xưa đây ngắng ngắt
Trăng mờ khắc khoải quốc kêu thâu...
(Chu Mạnh Trinh)
Suốt tập thơ của Thái Tú Hạp là một đóa hoa tâm tư vương rất nhiều ánh sáng hoàng hôn đầy những ngổn ngang hoài niệm với cung điệu xa vắng thuở nào, pha chút ít đó đây kỳ vọng mơ hồ của ảo ảnh để gọi là màu sắc bình minh nở trên miền đất lạ. Tất cả nhảy múa chập chờn trong sự pha trộn u hoài, thương tiếc, nhớ mong lảng đảng, thi nhân ôm Đất Mẹ vào lòng mà rưng rưng giọt lệ nuốt thầm trước cảnh ly hương tẩu quốc. Đang trầm ngâm với thi phẩm ”Hạt Bụi Nào Bay Qua” trước mắt, tôi bỗng nhớ đến lời thi hào Anh Quốc Oscar Wilde ”Làm thơ cũng như hội họa, bức chân dung hay bức hình mà nhà nghệ sĩ diễn đạt với tất cả tâm hồn của họ không phải là bức chân dung hay bức hình phản ảnh con người mẫu hiện thực trước mặt mà đích thực đó chính là bức chân dung hay bức hình của nhà nghệ sĩ đó vậy”.
Bỉ Quốc, ngày đầu xuân 1996
GS. VŨ KÝ