NHỮNG NGỌN CỎ THI
TRONG THƠ THÁI TÚ HẠP
TRẦN VĂN NAM
TÌM THƠ TRẦN NHỮNG SƯỜN ĐỒI HẢI NGỌAI
Những nơi chốn đánh dấu chỗ tác giả làm thơ mang những địa danh thật đẹp như Rừng Lá Đỏ (Redwood), công viên Tiếng Vang (Echo Park) ở Los Angeles và những ngọn đồi Monterey Park… nhưng thật sự tác giả không sáng tác lấy cảm hứng từ những nơi ấy. Nơi chốn hải ngoại chỉ là ngoại cảnh không ảnh hưởng vào nội tâm. Nhà thơ lựa chọn những ngoại cảnh vắng vẻ để tìm ý thơ, chỉ có tính cách không gian như gian phòng yên lặng để tác giả ngồi vào bàn viết sáng tác. Nói tóm lại, nhà thơ không đi tìm những sợi Cỏ Thi trên các sườn đồi hải ngoại mà chính là đi tìm Cỏ Thi trong tâm hồn:
ta kiếm loài cỏ thi
trên cánh đồng biệt xứ
Cánh đồng biệt xứ hay sườn đồi hải ngoại chỉ là bờ bến viễn phương để đứng ngóng về nội địa Tổ Quốc, đúng như lời tác giả trong bài tự tập thơ Miền Yêu Dấu Phương Đông: “Thời gian rồi sẽ qua đi. Ta không còn lạ gì trên những dòng ngôn ngữ chết. Tiếng nói như viên sỏi rơi chìm trong đáy hồ lạnh ngắt, buồn thảm nơi quê người. Phương Đông có còn trong hồn viễn xứ những dấu tích trầm mặc yêu thương?” Cho nên đi tìm những Phản Ánh của Đất và Người nơi chốn tạm dung là điều không làm được, vì tác giả đã khẳng định từ nơi viễn xứ, tâm hồn nhà thơ chỉ có Miền Yêu Dấu Phương Đông mà thôi. Những sợi Cỏ Thi tìm được trong tâm hồn chứ không phải trên các sườn đồi hải ngoại, dù các sườn đồi ấy mang những cái tên thật nên thơ, lại được chăm sóc phẳng phiu ở các thành phố văn minh nơi xứ người. Cỏ thi tác giả đi tìm được có khi là những câu thơ đẹp về tình hoài hương, nhớ nhà, nhất là thành phố Huế:
ba năm chợt về như nắng
đầu sông gió thổi mây qua
hiên nhà xưa em vẫn đợi
hàng tre ríu rít chim ca
Em vẫn giữ bài thơ trong chiếc nón
Thuở làm chim Đồng Khánh hót sân trường
…
Hồ Tịnh Tâm hương sen còn quý tộc
Trăng Nội Thành cánh hạc lướt như tranh
Huế bây giờ, Huế còn thơ
Em như lá trúc đôi bờ Hương Giang
Nội Thành chim bỏ đồi trăng
Cõi khuya nghe rụng tiếng đàn Nam Ai…
Trong quá khứ, tác giả là người đi nhiều trên khắp miền đất nước, tình yêu Tổ Quốc đậm đà nên có những câu thơ đẹp gắn liền với từ ngữ đặc biệt chỉ địa danh như đèo Rù Rì ở Nha Trang, những nhánh sông Cửu Long, hay nụ cười hồn nhiên của Sơn Nữ:
Rù Rì chim bỏ rừng xanh
xe qua nghe tiếng Cam Ranh thở dài
em Hà Tiên Vịnh trăng soi
Cửu Long mấy nhánh sông ngòi phu thê
mười năm chưa hết ngậm ngùi
Pleimé thương mãi nụ cười thảo nguyên
Cái Buôn Cái Bản về đâu
Cái đau để lại cái sầu mang theo...
Cỏ thi tác giả tìm được có khi mang cái đẹp của tư tưởng Lão Trang nhìn đời thấy phù du mộng ảo, lấy ẩn dụ từ hình ảnh một triết nhân xuất thế cỡi con trâu đi mất hút trên sa mạc miền Trung Á:
chiều qua đồi Liễu Quán
Trâu và Người biệt tăm
còn in ngàn lau trắng
vương vấn hoài trong tâm
(Chiều Qua Đồi Liễu Quán)
Gió cát ngàn dặm xa
Ta làm thân mục tử
Ngủ say trên đồi hoa
Bỏ quên đời hư ảo
(Cỏ Thi)
Cỏ thi tác giả tìm được có khi mang cái đẹp của Thiền Học Phật Giáo, không chỉ nhìn đời như giấc mộng, mà còn thấy được cái lưu tồn vĩnh cửu như dòng nước chảy hoài trong tâm thức:
không có gì ngọn đỉnh
mây biền biệt bay qua
cỏ ngàn năm vách đá
gió hững hờ chia xa
không có gì ngọn đỉnh
hoa lá thiên thu nhòa
càn khôn như giọt nước
chảy hoài trong tâm ta
(Như Không)
Cỏ thi tìm được từ trong tâm hồn Đông Phương mà bầu trời thơ mộng là tư tưởng Lão Trang pha trộn với Thiền Học Phật Giáo, được thể hiện bằng không khí của Đường Thi:
hoàng hạc vút cánh xa
thành xưa trăng quạnh vắng
hoang vu cõi ta bà
ngàn năm chim mộng trắng
…
thánh thi trên bia mục
hoàng hạc đã bay rồi
con trăng đồng trinh khuất
bên trời ta lẻ loi
NHƯ MÂY BAY QUA, NHƯ BỜ SÔNG LƯU LUYẾN VÀ NHƯ CON THÚ Ở GÓC ĐƯỜNG
Tư tưởng về Phù Vân, Vô Thường được thể hiện qua các từ nghữ tác giả thường lặp lại như một ám ảnh, một hứng cảm vãng lai, đó là các từ ngữ Bay qua, Trôi xa, đi mất hút… Những từ ngữ ấy thật dồi dào hiện diện trong suốt tập thơ mang chất thơ về sự mất hút, rơi rụng tan tác:
mưa Phù Cát khóc chia ly
Bình Khê heo hút bóng mây cuối trời
mây vẫn theo đời mây rong ruổi
núi non một dạ sắt son chờ
chiều qua đồi Liễu Quán
trâu và người biệt tăm
em có còn nhớ ta
như tiếng chim tiền kiếp
về trong cõi mù xa
bỏ đồi mây hiu hắt
tri âm như cánh hạc
vút qua ngàn biển khơi
người chợt đến chợt đi như nắng
rừng thiên thu vàng lá vô thường
Bên cạnh các từ ngữ mô tả sự phù du thoáng qua, ta cũng thấy thấp thoáng các từ ngữ có vẻ đối lập cái vô thường trôi qua dửng dưng; đó là các từ ngữ mô tả tiềm ẩn sự níu kéo, vấn vương, như bờ sông lưu luyến dòng nước chảy:
gậy trúc ngắm mây hồng
ta về cõi phương Đông
tóc em giòng suối bạc
cỏ thi tình quê hương
một sớm ta về giòng sông xõa tóc
gậy trúc đầu non đứng ngắm quê hương
mai về từ chỗ chia xa
bãi sông đầu bạc ngàn lau ngậm ngùi
Hình như cũng đối lập với sự đi qua, sự mất hút, là cái ấn tượng về sự ngừng lại trong nỗi cô đơn và quãng đời tù hãm. Tác giả nói về sự trôi qua biền biệt rất đẹp, về sự lưu luyến trì kéo cũng có chất thơ qua hình ảnh bờ sông xõa tóc, và về sự cô đơn ở một góc rừng hay trong một căn phòng tĩnh vật cũng khá thi vị:
giờ như con thú sầu góc núi
núi thẳm vây đời nhốt biển khơi
chợt nghe chim hót trong rừng thẳm
ta nhớ rừng xưa kiếp tù nhân
rừng với ta sâu không có tuổi
tóc với mây bạc trắng đầu non
loài dế đã bỏ quên
lời ca buồn tháng chạp
ta chong đèn cô đơn
trong căn phòng tĩnh vật
Đi tìm những phản ánh của Đất và Người nơi chốn tạm dung là một điều không tìm được trong tập thơ. Toàn thi phẩm Miền Yêu Dấu Phương Đông chỉ có bài thơ “Nghe Chim Hót Trong Rừng Redwood” là mang tựa đề về địa danh ở hải ngoại, nhưng tiếng chim trong rừng lá đỏ chỉ là một cái cớ, một liên tưởng đến khu rừng nơi có trại cải tạo tác giả đã sống qua nhiều năm sau năm 1975. Đây chắc không phải là miền yêu dấu Phương Đông mà chỉ là kỷ niệm đời tù nhân, tuy vậy nó cũng được tác giả nhắc nhở, vẫn có chuyện để nói hơn những địa danh nơi chốn xứ người nhà thơ chỉ coi như một bờ bến Viễn Phương chưa có một cảm hứng yêu dấu nào như miền Đông Phương của tác giả.