HẠT BỤI
Tùy bút của TRẦN HOÀI THƯ
Phải viết. Viết. Anh nằm trên giường, đầu óc nóng bừng, anh đã nói với anh, dặn dò cùng anh, và giận dữ cùng anh. Nhưng mỗi lần anh ngồi lại bàn, mở lại máy, đợi chờ vài giây, cho cái màn ảnh kia hiện ra một màu xanh, xanh như mặt biển, đậm như lần chiếc ghe 14 thước ra tận vùng biển chết, cá mập đuổi theo, hải tặc ùa tới, thì anh lại lắc đầu. Quên và nhớ. Nhớ và quên. Anh đang ở đây mà. Xứ người mà. Viết đi. Viết gì cũng được. Một giòng hay một chữ cũng được. Nhưng tại sao anh lại bất lực. Cõi đêm ngoài kia, xào xạc tiếng thở. Lá chắc lại rụng thêm. Lá chắc sẽ vàng thêm. Gân lá chắc sẽ đau thêm. Cành cây chắc sẽ trơ trụi thêm. Những ấm ức, thao thức, bâng khuâng hay nỗi buồn đã vùi trong mùa cũ, lâu lắm rồi, sao anh lại đem ra hành hạ thêm một lần nữa. Niềm ân sủng cuối cùng trở lại, anh đã nhận tất cả những phước lộ của cuộc đời. Anh đã van xin và van xin đã được gõ cửa. Một mái nhà, ba phòng ngủ, khu vườn sau với những cổ thụ lá ngợp cả sân, chiếc võng, những chậu lan, lài, tre, trúc...Đấy, nỗi mơ ước của một tên còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tù tội, biển cả, vô sản, bần cùng, không thể ngờ có một ngày thành sự thật nhưng rõ ràng nó đã đến dễ dàng, ban hết cho anh và gia đình. Một công việc professional nhàn nhã, giờ giấc làm việc thì uyển chuyển. Áo khỏi cần cà vạt, quần khỏi cần thẳng nếp, jean, giày bố tự do. Nhà cửa. Xe hơi. Tủ lạnh. Máy truyền hình. Máy stereo. Những ngày nghỉ phép. Những tiệc cưới. Những buổi cuối tuần xem football. Đứa con thì học trường thuốc. Anh chẳng khác một tên vô sản gặp được một gia tài. Ấy vậy, anh lại hành hạ anh. Hành hạ bằng ngòi bút của anh. Anh muốn vất nó, lạnh lùng và tàn nhẫn. Anh muốn bỏ nó vào cái bóng tối đằng sau. Anh muốn quên như một vết sẹo định mệnh. Đừng nghĩ. Đừng đặt câu hỏi. Đừng gì hết. Danh tiếng thì cũng chừng nấy. Mà danh tiếng gì ở cái quận nhỏ đây rừng dẻ rừng sồi này. Còn nữa, còn những độc giả của anh nữa. Chắc gì họ còn lưu luyến đến những trang văn chương chữ nghĩa nữa. Anh đã gặp một vài người. Họ bắt tay anh, kể lại những cảnh nghiền ngẫm các tạp chí văn học nữa. Họ đã nói đúng. Họ đâu cần anh viết về họ nữa. Họ cũng muốn quên như anh. Như vậy, anh viết cho ai đây? Con anh? Chữ Việt mất còn, nhiều khi không đủ vốn để diễn tả, làm sao nó có thể đọc những giòng văn lê thê ẩn dụ của ba nó. Như vậy, viết cho ai? Sứ mạng. Ngòi bút là sư đoàn. Ở đâu đó, từ những kiếp đời bất hạnh, từ cõi lầm than, từ nơi chốn không còn dưỡng khí. Còn ở đây, mỗi người là một sư đoàn trưởng, đâu còn bất hạnh để mà kêu gào. Nơi này, ozone thì quá tràn đầy, đâu còn bít bùng để mà tìm ra ánh sáng.
Nhưng anh lại bật đèn thêm một lần nữa. Anh đứng dậy giữa bốn bề sách vở. Anh đến bên cửa sổ, áp mặt vào khung kính, nhìn xuống sân vườn. Dưới ánh đèn hiu hắt mờ nhạt trong sương đêm, cả khu rừng đang ngủ yên. Mùa thu. Một mùa kỳ lạ, cứ bắt con người đắm chìm vào những hư tưởng. Nó cứ u hoài, với không gian im ỉm, đầy tịch liêu, đầy tiếc thương những ngọn lá vàng trên cành hôm qua, và hôm nay rụng trên thềm cỏ. Sương lóng lánh trên những bờ dậu hàng rào. Anh châm điếu thuốc. Rồi cuối cùng, ai cũng phải nằm ở đấy, lãng quên côi cút. Rồi cuối cùng, nếu có ai mổ con tim của con người để xem nó đã chứa đựng những gì, thì họ sẽ ngạc nhiên vì cái hòn đá nặng như khối chì trong con tim anh. Mấy mươi năm, em nhỏ bé, vai em mềm, da thịt em thơm tho, vú ngực em phập phồng, miệng môi em ngọt lịm. Mấy mươi năm, mấy mươi mùa thu ra đi, rồi trở lại, rồi ra đi. Muốn làm một cánh chim đại bàng, vượt trùng khơi về lại, đậu trên ngọn đồi Nam Ổ. Xem thử lá có rụng thêm. Nhìn thử những hàng cây rừng có cúi đầu. Thấy thử đá có đau như tiền nhân đặt cái tên Thạch Hản, Thạch Lệ. Chiếc computer vẫn ủ dột từ khi anh mua về. Những nhu liệu vẫn chưa bao giờ thử. Mà thử gì, khi anh đã ngồi lặng hằng giờ, đầu óc nóng bừng. Viết. Nhưng viết gì trong cái cõi âm ty đen rợn như thế này. Một đằng, chữ nghĩa đã trở nên bất lực, bị tước đoạt, bị cấm đoán, và một đằng chữ nghĩa trở nên thừa thãi. Nhưng đối tượng của chữ nghĩa thì không còn nữa. Vất hết. Dẹp hết. Đừng quảng cáo. Đừng kêu gọi. Đừng năn nỉ, Đừng ra mắt. Chiều hiu hắt trong căn gác, giường chiếu xô lệch phận đời. Mắt nâu thì cũng nhức hoài em ơi, tim anh. Sự xa cách đến độ ngàn trùng. Sự cô đơn thì chót vót. Mắt đã cay rồi. Thì ra cuối cùng, còn lại cái nửa trang quảng cáo trên tờ Văn Học bạn thương dành miễn phí, liên lạc về địa chỉ...điện thoại, 30 năm Bách Khoa, Văn, Thời Tập, 15 năm khắp thế giới...Đánh giặc. Bị thương trận 3 lần. Tù tội. Vượt biển. Ra Biển Gọi Thầm ra mắt...anh đã ngóng cổ dài, đợi chờ mỏi mê, mò đến tận góc thùng thơ, nhìn tận đáy mail box, may ra một lá, chạy hoài compuserve, attmail, may mà có em đời còn dễ thương. May mà có Thái Tú Hạp cứ nhắc hoài, Thư ơi, bọn mình chỉ còn mây trắng, đọc Hạt Bụi Nào Bay Qua mới hiểu được nỗi lòng của bọn mình, thế hệ của bọn mình. Hạp ơi, tôi đã đọc thơ anh, mỗi bài là những ngậm ngùi, nước mắt, hoài niệm ngổn ngang, mây trắng lạc loài và cuối cùng là những hạt bụi. Anh không biết có lần tôi áp trang thơ lên mắt, mà không ngờ, những giòng chữ đã nhòa nhạt đi lúc nào không hay.