THẾ LỮ
BUỒN ƠI! XA VẮNG...
THÁI TÚ HẠP
Trong một sát-na nào đó, tôi tưởng chừng như đã Ngộ cái ý nghĩa “Tứ Đại Giai Không” của nhà Phật. Và tôi cảm thấy thấm thía những câu thơ biểu hiện về sự thức tỉnh triết lý của kiếp nhân sinh mà nhà thơ Cao Tiêu đã đề cập tới:
...Nhìn xem trong cõi ta bà
Dẫu rằng sắc, tướng cũng là hư không
Đời người bóng ngựa bên song
Lẽ sinh tử chẳng qua trong luân hồi...
Tất cả chúng sinh đều trở về cõi an nghỉ đời đời nơi Cực Lạc hoặc Thiên Đường? Hay lại tiếp tục vướng mắc vòng quay của kiếp luân hồi vì cái nghiệp còn đeo đuổi? Những ngôi sao tỏa sáng trên thi văn đàn Việt Nam một thời cũng đã lần lượt tắt lịm và lặng lẽ ra đi. Ở cõi hư vô miên viễn nào đó, những thiên tài đã gặp nhau chắc hẳn đã hài hòa từ ái với nhau hơn khi còn ở nhân thế? Những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Phan Du, Hoàng Trúc Ly, Quách Thoại, Y Uyên, Nguyễn Bính...và mới đây Thế Hoài, Quách Tấn, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Quang Dũng, Tú Mỡ, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Vũ Khắc Khoan, Thanh Nam, Chế Lan Viên, Trần Huyền Trân, Yến Lan, Thế Lữ...Trong sự hủy diệt của thể xác đó, những tinh anh phát tiết bằng thi văn hy vọng vẫn còn mãi ở thế gian và trong yêu thương của mọi người. Ông Võ Phiến đã nhận định: nhà thơ chỉ tồn tại với thơ. Nhưng cũng có những hiện tượng người vẫn sống mà linh hồn họ tưởng chừng như đã chết từ lâu. Điều nhận xét này, ông Nguyễn Hưng Quốc cũng đã viện dẫn đến hàng loạt những nhà thơ tiền chiến đi theo Cộng sản: ”...Những thành phần văn nghệ sĩ này đều là những người chết muộn. Họ thực sự đã chết sớm, rất lâu, với tư cách là một nhà thơ, trước cái chết của thể xác họ, và với tư cách một sinh vật đảng viên hay cán bộ tuyên truyền của nhà nước. Có người chết tức khắc, chóng vánh, ngay khi người ta đòi biến thơ thành “THÉP”.
Những người yêu thơ của một thời trào lưu bừng nở trăm hoa, mỗi sáng tác là một viên ngọc quý trên thi đàn Việt Nam ”...Phần lớn giá trị của những ngọn đỉnh cao nhất của những nhà thơ tiền chiến đều nằm ngoài, bên kia, xa lắc trước cửa nền thơ gọi là “hiện thực xã hội chủ nghĩa...” (Nghĩ Về Thơ của Nguyễn Hưng Quốc).
Chúng ta nên giữ thái độ công bằng để nhìn trên góc cạnh không gian, thời gian, vận chuyển đa hiệu của cao trào thơ cận đại, mới cảm thấy sự ra đi của những tài danh như Vũ Hoàng Chương, Quách Thoại, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Trần Huyền Trân, Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Phùng Quán, Thâm Tâm, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Yến Lan và Thế Lữ...là sự mất mát lớn đối với nền thi ca Việt Nam. Theo quan niệm của chúng tôi, thi ca phải trân quý ở cái thế giới vượt thoát lên cao, ra ngoài mọi chủ nghĩa phi dân tộc, mọi chủ thuyết triệt hủy sự sống và giá trị con người, mọi hố thẳm của thù hận, và mọi đau đớn của ngục tù. Ở cái thế giới thơ mộng an bình thực sự đó, chúng ta sẽ rong chơi trong không khí đẫm mật, đầy yêu thương của mùa xuân vi diệu tuyệt vời mà Thế Lữ vẽ nên:
...Ánh xuân lướt cỏ, xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn
Tiên Nga xõa tóc bên nguồn
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi
Trời cao, xanh ngắt ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người Tiên Nga
Khi cao, vút tận mây mờ
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không
Thiên Thai thoảng gió mơ màng
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa mây...
(Tiếng Sáo Thiên Thai)
Cho đến bây giờ, không ai có thể chối bỏ một trong những thành viên có công lao khai mở phong trào thơ mới ở thời tiền chiến của Thế Lữ, giai đoạn 1930-1945. Ông được xem như là một chiến sĩ biệt kích tiên phong nhưng rất khiêm nhượng thi triển tài năng để phá vỡ thành trì thơ cổ và những tư tưởng phong kiến lạc hậu, nhằm cải cách xã hội theo quan niệm mới mẻ:
...Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối
Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng cây trồng
Giải nước đen giả suối, chẳng thông giòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u...
(Nhớ Rừng)
Trong mỗi đời sống đầy nhiệt huyết của thanh niên, dọc ngang cung kiếm oai hùng ”...Xuống Đông đông tĩnh, lên Đoài đoài tan...” như những tráng sĩ trên mình ngựa rong ruổi khắp cùng non cao hải tận, oanh liệt ngang tàng...Thời cuộc đổi thay, cho đến một hôm nào đó khi gió rừng phong chớm lạnh. Tráng sĩ cảm thấy se lòng vì nhớ nhung, dừng ngựa lưng đèo, soi mình trong giòng suối vắng, mới khám phá tóc mình đã tuyết pha, tấm áo giang hồ đã tơi tả trong thời gian xông pha nơi gió bụi: “Thì ra tuổi đã ngất ngưỡng ở cửa tri thiên mệnh...” người chiến sĩ già quạnh quẽ đi vào cõi thầm lặng của thế gian, diện bích mà tiếc nuối tuổi đời qua mau, nhưng mộng vẫn chưa thành, hai bàn tay trắng bắt những bóng mây trời ảo vọng:
...Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Tay say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?...
(Nhớ Rừng)
Người về trong cõi quạnh hiu, hồn xác rã rời chuyện nhân thế, đã nghe chừng quên lãng những cảnh náo nhiệt, ngựa xe cờ xí một thuở vàng son:
...Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...
(Huyện Thanh Quan)
...Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
(Xích Bích Hoài Cổ - Đỗ Mục)
Kích gãy bờ sông vùi dưới cát
Biết đến triều xưa khi rửa xong
Gió đông tan mộng Chu Công Cẩn
Hai Kiều Đồng Tước khóa thanh xuân
Cát bờ sâu - kích giáo chìm
Rửa ra mới hiểu căn nguyên tiền triều
Chu Lang, gió chẳng thuận chiều
Nên Đồng Tước khóa hai Kiều tuổi xuân
(Nhớ Xưa Trận Xích Bích - Ái Cầm)
...Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt - chiều tê cúi đầu...
(Huy Cận)
Không là tráng sĩ phiêu hốt, trận tiền lưu danh trong sử sách, chỉ là một người bình thường vương vấn chút mơ thôi, và một tâm hồn bé nhỏ của người nghệ sĩ mang “Cây Đàn Muôn Điệu” xuôi ngược trần gian để cho nhân thế bớt ưu sầu.
...Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca...
Người nghệ sĩ đi đến đâu đều được mọi người đón tiếp nồng nhiệt đến đó, vì ông không mang đến chủ nghĩa vô thần này, lý thuyết vong bản khác, ông chỉ đôn hậu mang đến vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng của non nước, của thi văn, tư tưởng, dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân...ông mang đến tình yêu cho mọi người, có thể vì đồng điệu trong cõi thơ trần thế, nên chúng tôi nghĩ về Thế Lữ bằng tâm lượng hồn nhiên sông biển:
...Cơn gió nhẹ lướt qua làn sóng
Nắng chiều xuân rung động trên cành
Mấy hàng lau yếu nghiêng mình
Cô em bỗng ngẩn ngơ tình vì đâu?
(Hồ Xuân Và Thiếu Nữ)
...Hôm qua đi hái mấy vần thơ
Ở mãi vườn tiên gần Lạc Hồ
Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo
Gió đào mơn trớn liễu buông tơ...
...Anh đi đường anh, tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
Đã quyết không mong sum họp mãi,
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
Non nước đương chờ gót lãng du,
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi,
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông thu vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây...
(Giây Phút Chạnh Lòng)
Ngoài cái mơ ước cải hóa xã hội, Thế Lữ còn đưa hồn thơ vào cõi mê cung thoát khỏi trần thế. Ông đi tìm thế giới không có thực. Cái thế giới hư vô đã có lần ông Phạm Công Thiện thường nhắc nhở tới. Có thể người đời cho ông là viễn mơ, không thực tế, nhất là những người yêu thơ lác đác như “Lá vàng rơi trên giấy. Ngoài giời mưa bụi bay” (Vũ Đình Liên) ở hải ngoại, bây giờ, trong khi mọi người Việt lưu vong phải chạy đuổi theo đời sống như những toa tàu không biết mệt, thì thơ ông rất ư càng xa lạ. Tuy nhiên vẫn được xem như viên đá quý trong tâm thức những người yêu thơ của những thế hệ đang bước vào tuổi già:
...Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút, buồn như liễu
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên...
...Lời oanh trên liễu, yến bên hồng
Hạc ở trong không, phụng dưới tùng
Bỗng chốc cùng nhau cao tiếng họa
Đờn tiên rộn rã khắp tiên cung...
(Vẻ Đẹp Thoáng Qua)
Thế Lữ, một nhà thơ đầy nhân tính và khai phóng lẫm liệt đến như thế, nhưng đến khi bị cuốn hút vào cơn bão lửa của thời đại sau 1945-1954 thì chính ông đã dứt khoát lên tiếng “vô thừa nhận” những đứa con tinh thần lừng lẫy nhất trong giòng Văn Học Dân Tộc Việt Nam.
Ông đã mất tại Saigon cuối năm 1988. Thành phố mà trước 1975 đã có rất nhiều người yêu thơ ông và mang đến khắp tận chân trời viễn xứ.
Tất cả như chiếc lá vàng úa, bay vèo trên thảm cỏ xanh, hay tan rữa trong mặt hồ tĩnh lặng. Có còn chăng trong lòng nhau là những giây phút giao động khi nhắc đến những bài thơ của ông một thời vang bóng:
...Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn...
Tiên Nga tóc xõa bên nguồn
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi...