Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

 

 

TẢN ĐÀ - SUỐI KHÔ

GIÒNG LỆ CHỜ MONG

 

THÁI TÚ HẠP

 

Khi chúng ta đang còn sống trên xứ sở quê hương, giữa các trào lưu văn học thế giới tràn ngập vào tâm hồn lớp trẻ trí thức hết đợt sóng hiện đại này đến những ý thức mới của văn học và triết học khác, thực sự mấy ai còn nhắc nhở đến Tản Đà, Hồ Biểu Chánh, Phạm Quỳnh, Á Nam Trần Tuấn Khải, Tương Phố, Đông Hồ, Phan Huy Ích, Hồ Xuân Hương, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan... Đa số đã chạy đuổi theo những trang sách của Heidegger, Apollinaire, William Saroyan, Henry Miller, Alexis Zorba, Sartre... chắc chắn ảnh hưởng chỗ đứng của các tiên sinh tiền bối thuở Thịnh Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hạo, Lý Thượng Ẩn... lại càng bị đẩy lùi ra “xa lộ” văn học Việt Nam cuối thế kỷ hai mươi.

Trong một sát-na xúc động tình cờ trong đời sống nơi viễn xứ, tôi chợt khám phá nguyên ủy lưu vong của loài rong rêu trên giòng thác cuồn cuộn đổ từ ngọn đỉnh non cao. Chợt bắt đầu khép kín những nhung nhớ cố hương. Với sức lực của con ngựa già, không vượt nổi qua những chặng đồi núi phong ba của nhân thế, để phóng tới cánh đồng thảo nguyên tương lai.  Mùa xuân đến nơi đất khách, nhưng tâm sự người lưu vong vẫn não nề, cái tâm sự mà TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU đã cảm nhận từ hơn năm mươi năm trước như những lời tiên tri:

 

...Nước Non nặng một lời thề

Nước đi, đi mãi không về cùng non

Nhớ lời nguyện Nước cùng Non

Nước đi chưa lại non còn đứng không

Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương

Trời tây bóng ngả tà dương...

 

Tản Đà đã gợi lên sự thực đau lòng đó, nhưng ông vẫn tin rằng trong vận chuyển Ngũ Hành, chu kỳ sinh diệt là lẽ tất nhiên của Tạo Hóa. Nỗi tư duy thần diệu nhất, Tản Đà đã biểu hiện cái tính chất “nước đi ra bể lại mưa về nguồn” kết hợp được triết học Đông Phương và khoa học vật lý Tây Phương: Nước đi ra biển, nhờ nắng bốc thành hơi bay về núi gặp khí lạnh gió thổi tan thành mưa. Cứ thế, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác nhịp nhàng vi diệu trong sinh hóa của vũ trụ:

 

...Non xanh tuổi vẫn chưa già

Non thời nhớ nước, nước mà quên non

Dù cho sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa

Non xanh đã biết hay chưa

Non đi ra biển lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non nước có buồn làm chi

Nước kia dù hãy còn đi

Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước chưa nguôi lời thề...

(Thề Non Nước)

 

Đề cập đến công trình văn học đóng góp vào sự nghiệp văn hóa dân tộc Việt Nam của Tản Đà quả thật không nhỏ. Mặc dù Tản Đà xuất hiện giữa thời đại giao mùa của trào lưu văn học cũ và mới. Thời kỳ mà sở học Hán và Nôm đang bị đẩy lùi vào hậu trường sân khấu trong mọi sinh hoạt văn chương nghệ thuật. Hình ảnh của những ông đồ già nuối tiếc một thời vang bóng hiện lên như một bức tranh cô đơn buồn bã tội nghiệp:

 

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bầy mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua

 

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay”

 

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ không buồn thắm

Mực đọng trong nghiên sầu...

 

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

 

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

(Ông Đồ - Vũ Đình Liên)

 

Tuy nhiên, sự hình thành của giòng văn học Hán - Nôm khi khoa cử ở thời kỳ phục hưng, sự thực không ai có thể phủ nhận những công trình sáng tạo của một số nhà văn nhà thơ Việt Nam với những tác phẩm lừng lẫy cho mãi đến bây giờ chưa chắc có được những tác phẩm nào xứng đáng để thay thế. Như “Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du” “Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu” “Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn”. Những thi tài vượt bực như Hồ Xuân Hương, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Tú Xương...

Đến khoảng thời gian đầu thế kỷ 20 từ khoảng năm 1913 đến 1917, nền văn học Việt Nam đã bắt đầu ảnh hưởng bởi giòng văn học Tây Phương, từ đó như vết dầu loang tỏa rộng ra khắp nước và ồ ạt gây thành những trào lưu mạnh mẽ đến năm 1930, lừng lẫy chiến thắng từ năm 1930 - 1945. Tiêu biểu những lực lượng nòng cốt của trào lưu văn học mới có Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận... và nhóm Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam được xem là những cây bút tiền phong tiến công vào thành trì, phá vỡ những hủ hóa đầy phong kiến của xã hội cũ. Khi con đê đã phá sập, giòng nước tuôn trào, các tư tưởng tây phương xâm nhập vào lớp trẻ trí thức Việt Nam như Lamartine, La Fontaine, André Maurois, Mallarmé... Có lẽ ngán ngẩm cho thế sự đổi thay đến nỗi Thi sĩ Trần Tế Xương phải than thở một cách chua cay:

 

...Nào có ra gì cái chữ Nho

Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co

Chi bằng đi học làm ông Phán

Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò...

 

Tản Đà cũng cảm thấy chán nản nhưng không bi quan với khả năng cầu tiến nên ông cũng cố nghe theo lời khuyên đầy cay đắng của Trần Tế Xương theo học sách Âu Tây qua người Hoa dịch, gọi là Tân Thư, để mong kiếm thêm chút vốn liếng Tây học, kiếm gạo nuôi vợ con:

 

Mười mấy năm trời ngọn bút lông

Thảnh thơi chẳng bợn chút hơi đồng

Bây giờ anh đổi lông ra sắt

Cách kiếm ăn đời có nhọn không?

 

...Hôm qua chưa có tiền nhà

Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào

Đi ra rồi lại đi vào

Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ!

 

Mặc dù cuộc sống cơ hàn gánh nặng gia đình, vợ con, nhưng Tản Đà luôn luôn giữ tiết tháo một nhà thơ, nhà báo có tư cách, luôn đề cao tinh thần yêu nước “...Trong thời gian vất vả nhất về tài chính là thời gian hơn tám năm ròng rã, Tản Đà xuôi ngược Hà Nội, Nam Định, vào Vinh rồi trở về Hàng Bông để vận động An Nam Tạp Chí một cách tích cực, nhưng chỉ phát hành cầm chừng tạp chí này. Cuối cùng An Nam Tạp Chí bị đóng cửa vĩnh viễn, Tản Đà thác lời Hàn Thuyên: Than ôi! An Nam tạp chí mà đến nỗi phải đình bản, thời còn gì là An Nam!” (Văn Xã, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu).

Từ đó Tản Đà như người thất chí mượn rượu tiêu sầu.

 

...Say sưa nghĩ cũng hư đời

Hư thời hư vậy, say thời cứ say

Đất say, đất cũng lăn quay

Trời say, mặt cũng đỏ gay, ai cười!

 

...Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi

Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi

Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng

Tiếc mộng bao nhiêu lại chán đời

Những lúc canh gà ba cốc rượu

Vài khi cánh điệp bốn phương trời

Tìm đâu cho thấy người trong mộng

Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?

(Nhớ Mộng)

 

Đôi khi người đời không biết Tản Đà say rượu, say mộng hay là say thơ? Chính ông cũng không phân biệt cảnh đời, cảnh mộng và cảnh tiên. Mộng và thực lẫn lộn trong đời sống đầy phiền não vì phải tranh đấu miếng cơm manh áo nuôi cái thân xác tạm bợ nơi cõi trần thế.  Ông cảm thấy lạc lõng chơ vơ giữa cuộc đời đầy buồn bã thê lương:

 

...Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nữa rồi

Cung quế có ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió cùng trăng thế mới vui

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tự nhau trông xuống thế gian cười...

(Muốn Làm Thằng Cuội)

 

Không biết cảnh Thiên Thai có thực như câu chuyện Lưu Nguyễn ngày xưa? Hay chỉ là dấu vết giác ngộ quay về của tâm thức sĩ phu? Để nhìn thấy những nguyên vẹn không còn nữa, mặc dù lòng thủy chung vẫn trọn đầy trong trí tưởng người đi. Có thiên đàng nào đẹp bằng quê hương. Tâm trạng ray rứt nhớ nhung của Lưu Nguyễn là nỗi niềm tâm sự chung của Tản Đà, tâm sự qua những tư duy ẩn mật, sâu sắc trong mỗi người lưu vong, mơ ước ngày trở lại quê nhà thực sự an bình trong ý nghĩa chân thành thường trực:

 

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi

Đá mòn, rêu nhạt

Nước chảy hoa trôi

Cái hạc bay lên vút tận trời

Trời đất từ nay xa cách mãi

Cửa đóng

Đầu non

Đường lối cũ

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

(Tống Biệt)

 

Tản Đà mang nỗi sầu đi tiếu ngạo khắp cùng đất nước và ngạo nghễ trong cái thú vui bất tận thơ rượu của ông, tính tình khẳng khái ngay thật, đả phá mọi thành kiến hẹp hòi phe phái trong sinh hoạt giao mùa của trào lưu văn học mới - cũ. Ông cố gắng sống thoải mái cho chính sở thích tự nguyện của ông nên nẩy sinh nhiều giai thoại về Tản Đà cũng khá lý thú như thi sĩ Bùi Giáng:

 

...Trời sinh ra bác Tản Đà

Quê hương thời có, cửa nhà thời không

Nửa đời nam, bắc, tây, đông

Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly

Túi thơ đeo khắp ba kỳ

Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...

 

Có lẽ Tản Đà là nhà văn nhà thơ đầu tiên có sáng kiến vắt óc để mưu cầu phương kế sinh nhai, cho một mình ông thôi đã vất vả lắm, huống hồ phải kiếm gạo nuôi vợ con lại càng vất vả trăm chiều.

 

...Cuộc trần thế kiếm ăn chẳng dễ

Rẻ rúng thay là nghệ làm văn!

 

...Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó

 

...Ra văn mà chẳng ra tiền

Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền

Văn ế bao giờ cho bán hết

Phen này có nhẽ gánh lên tiên!

 

Hơn năm mươi năm sau văn chương chữ nghĩa ở đất khách còn não nề thê thảm hơn. Lớp đàn em “nặng nợ tơ tằm, cái nghiệp văn chương nó đuổi đeo”, ở hải ngoại “vắt óc moi tim” cho ra những giòng văn, những vần thơ, nhưng hàng sách càng ngày càng ế ẩm và đang trên đà báo động lâm nguy. Chỉ còn lác đác ở thế hệ gọi là “nghiệp dĩ” liên hệ đến những yêu thích thơ văn tiền chiến và hậu chiến miền Nam từ trong nước, là họa may còn nhắc nhở đến những tên tuổi Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Phan Khôi, Tự Lực Văn Đoàn với Nhất Linh, Thạch Lam... và thỉnh thoảng những Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn... như một vọng âm hiếm hoi trong đời sống chạy đuổi theo bánh xe quay của guồng máy thực dụng.

Cái tâm sự đau buồn của Tản Đà khi ông đã chọn gởi gấm vào lối ngõ Đường Thi như những lời than thở cuối cùng:

 

Hạc vàng ai cỡi đi đâu?

Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!

Hạc vàng đi mất từ xưa

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay

Hán Dương sông tạnh cây bày

Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

(Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hộ - Tản Đà dịch)

 

Không những riêng Tản Đà mà cả chúng ta cũng đang mang tâm sự não nề buồn thảm không kém như ông ngày xưa. Có lẽ Tản Đà chỉ bước đến cửa Khổng – Lão, mà chưa bước vào Thiền Môn chiêm nghiệm cái ý niệm vi diệu Sắc Sắc Không Không - Tản Đà sẽ thanh thản biết chừng nào, khi đến rong chơi cõi trần gian và khi cuộc vui đã mãn, thanh thản ra đi như một đám mây trắng bay qua giữa bầu trời Như Huyễn.

.

TẢN ĐÀ tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm Mậu Tí 1888 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê hương ông là dải bình nguyên sông Đà, chạy dài tới chân núi Tản Viên, nên ông lấy tên núi Tản ghép với sông Đà làm bút hiệu.

Phụ thân Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, đỗ cử nhân, làm quan lên tới chức án sát. Mẫu thân ông, Lưu thị Hiền (có sách ghi là Khiêm), cũng là người có học, có tài ứng đối, làm thơ.

Xuất thân con nhà cử nghiệp, Tản Đà sau khi học vỡ lòng chữ Nho ở Nam Định, sống và học với người anh cả là Nguyễn Tái Tích. Ông anh lúc ấy đã đậu phó bảng, làm đốc học ở Sơn Tây, Vĩnh Yên rồi đổi ra Hà Nội. Riêng phần Tản Đà học hành lận đận, chỉ đỗ kỳ hạch ấm sinh dành cho con quan. Ông trượt luôn hai khóa Kỷ Dậu (1909) và Nhâm Tí (1912) chán nản bỏ luôn khóa Ất Mão, chuyển sang học chữ quốc ngữ và bắt đầu viết Giấc Mộng Con.

Năm 1913 Tản Đà được Trịnh Xuân Nham, giáo thụ trường Hậu Bổ đề bạt cho Nguyễn Văn Vĩnh, ông có các bài tiểu luận đăng khá đều trên Đông Dương Tạp Chí và bắt đầu được chú ý.

Từ cuối năm 1925, ông ra An Nam Tạp Chí. Tờ báo đóng cửa ba lần, tục bản hai lần, tới 1933 mới đóng cửa luôn. Trong khoảng thời gian An Nam Tạp Chí đình bản, thi sĩ Tản Đà vào Sài Gòn viết cho Đông Pháp Thời Báo của Diệp Văn Kỳ (1927) nhưng nửa chừng bỏ trở ra Bắc tục bản An Nam Tạp Chí (1927).

Từ cuối năm 1932, ông đóng cửa vĩnh viễn tờ An Nam Tạp Chí (Nguyễn Văn Vĩnh cũng ra tờ An Nam Tạp Chí khác trong cùng năm này). Vốn đã sống trong cảnh túng thiếu, Tản Đà càng lúc càng quẫn bách hơn. Có lúc ông về Bạch Mai (gần Hà Nội) mở lớp dạy chữ Nho. Có lúc ông quay về Hà Đông, đăng quảng cáo trên vài tờ báo: “Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Có lúc ông phải mở cả phòng đoán số Hà Lạc để kiểm sống (1938).

Tản Đà mất vì bệnh gan, ngày 17.6.1939 tại nhà riêng, số 71 ngã tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và tám con. Di thể tiên sinh được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội.