SÔNG LĂNG VÂN
VÀ CHUÔNG CHIÊU HỒN AI
THÁI TÚ HẠP
Trong thời gian cuối đời, nhà văn Mai Thảo hay tự khai mở những chuyến đi bất ngờ cùng khắp chân trời để thăm bằng hữu gần xa, có khi đến năm sáu tháng chúng tôi mới gặp anh một lần. Cảm giác lâu lâu mới gặp nhau đó bỗng dưng lại hiện đến nhân ngày giỗ đầu, khi chúng tôi đến thăm anh ở nghĩa trang Westminster, tại Vườn Vĩnh Cửu, trên đường Bolsa, gần khu Little Saigon. Đôi lúc, chúng tôi vẫn còn giữ cảm tưởng về sự vắng mặt của anh như một khoảng cách đi xa chưa về. Đứng trước mộ phần anh hôm nay, mới hiểu thực tế là anh đã lìa xa chúng ta vĩnh viễn. Chuyến du hành dài vô tận. Những kỷ niệm về anh được bằng hữu nhắc đến. Chẳng lẽ chúng ta không còn người anh văn nghệ nào trong cõi đời hư huyễn này giữ nguyên vẹn tấm lòng chân thành rộng lượng và nhiều cởi mở dễ thương như anh Mai Thảo? Sống đời có nhiều bạn bè quý mến, ra đi cả năm trời vẫn còn nhiều người mến thương đến thắp vài nén hương, mang đến vài cành hoa tưởng niệm, kể cũng “hài lòng nơi chín suối”. Những người đến viếng thăm anh sau cùng, Nguyễn Mạnh Trinh, Long Ân và chúng tôi đều đồng ý: Sở dĩ anh được nhiều người thương vì anh đã sống trọn tấm lòng với bằng hữu. Suốt đời anh quả thực là một cuộc rong chơi, thăm bằng hữu khắp bốn phương trời. Chắc nhờ chất liệu cảm hứng từ những chuyến du hành lãng tử đó, anh đã hình thành nhiều tác phẩm giá trị.
Mới hôm qua, đưa con vào thư viện Monterey Park, tình cờ bắt gặp cuốn sách The Old Man And The Sea của Ernest Hemingway. Cuốn sách tôi đã có dịp đọc cách đây gần ba mươi năm trước. Một thời tôi đã từng say mê những tác phẩm của nhà văn Mỹ vĩ đại thế kỷ 20 này. Ông cũng là nhà văn rong chơi khắp nơi, suốt cả một đời không thấm mệt. Nơi viễn xứ, Ernest Hemingway cũng mang tâm trạng cô đơn lạc lõng tận cùng như nhà văn Mai Thảo. Những hiện tượng bi thảm đó, chúng ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm của E. Hemingway như Mặt Trời Vẫn Mọc, Giã Từ Vũ Khí, Cái Chết Trong Chiều, Hạnh Phúc Ngắn Ngủi Của Macomber, Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro, đến Chuông Chiêu Hồn Ai và nhất là sự phấn đấu đơn độc nhưng không bao giờ chịu thua hay tuyệt vọng trong tác phẩm đã đưa ông lên đài vinh quang bằng giải thưởng Nobel năm 1954, Ông Già Và Biển Cả. Nhưng đối với Ernest Hemingway, giải thưởng cao quý giá trị về văn chương bậc nhất mà bất cứ nhà văn nào trên thế giới đều mơ ước chiếm đoạt, thì ông vẫn không tạo nên điều kiện tâm lý hạnh phúc, nỗi cô đơn vẫn âm ỷ nẩy mầm càng ngày càng phủ ngập tâm hồn ông. Cái tâm trạng Lưu Nguyễn đến Thiên Thai, không còn mơ ước Thiên Thai. Cũng giống như anh chàng ngồi trong vườn, bên hoa với vợ con nhìn ngàn sao lấp lánh trên bầu trời, mơ ước có đôi cánh bay lên thăm Nguyệt Điện Hằng Nga. Đến một ngày nào đó, anh được chọn vào phi hành đoàn lên thám hiểm cung trăng và phải ở trên đó vài tháng để nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến khoa học và cứ mỗi đêm nhìn về địa cầu, anh đau khổ vì da diết nhớ đến vợ con, bằng hữu và nhân loại. Cho đến khi anh thực sự quay về trái đất, anh mới cảm thấy chưa có hạnh phúc nào vĩ đại bằng vòng tay ôm của vợ con, và anh yêu trái đất này vô cùng vì đã cho anh tình thương và anh không còn cảm giác cô độc. Tất cả danh lợi chỉ là vô nghĩa, chẳng khác gì bộ xương trắng dài của con cá kình trên bờ biển chờ sóng kéo ra khơi. Không biết có phải vì triết lý sâu xa về thân phận cô đơn của con người mà Ernest Hemingway đã giã từ cuộc đời bằng chính phát súng của mình. Tất cả cũng chỉ là bóng câu qua cửa sổ. Chỉ còn lại sống mãi trong ký ức người Việt khắp nơi những Đêm Giã Từ Hà Nội, Tháng Giêng Cỏ Non, Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật, Mười Đêm Ngà Ngọc, Sống Chỉ Một Lần, Để Tưởng Nhớ Mùi Hương... Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền... của nhà văn, nhà thơ Mai Thảo. Và xa hơn trong ký ức nhân loại, những tác phẩm tuyệt vời như Chuông Chiêu Hồn Ai, Giã Từ Vũ Khí, Ông Già và Biển Cả... của Ernest Hermingway... Đúng là “Một thời để yêu và một thời để chết!”, nói theo giọng điệu của Hermann Hess.
Chúng ta luôn luôn hoài nghi về sự hiện hữu giữa cõi ta bà này. Đến từ đâu và ra đi về đâu trong cõi trùng trùng duyên khởi. Cái bóng đầy sắc màu đã quyến rũ ta. Những lời mật ngọt đã lôi cuốn ta. Những lợi danh đã phủ dụ ta và xô ta rơi ngã trên những bờ vực thẳm. Có được như một giai thoại về thiền sư Vô Căn (Ryokan) thì quá hạnh phúc tuyệt vời. Kẻ trộm viếng thiền thất của thiền sư trong khi thiền sư đi vắng. Kẻ trộm vô cùng thất vọng vì thiền thất không có vật gì quý giá để lấy, cuối cùng đành phải quay ra cổng, bất ngờ gặp lúc thiền sư trở về, nhìn thấy vẻ thất vọng hiển lộ trên khuôn mặt kẻ trộm, thiền sư Vô Căn không chần chờ suy nghĩ vội cởi bộ áo đang mặc trên người trao cho kẻ trộm. Qua vài giây phút, vừa ngỡ ngàng, vừa kinh ngạc, nhưng không quên giựt bộ áo chạy thoát ra cổng chùa. Thiền sư Vô Căn nhìn theo mỉm cười và từ tốn ngồi với mình trần trên phiến đá trước Thiền tự ngắm ánh trăng đang lồng lộng tỏa sáng khắp cảnh chùa. Thiền sư Vô Căn chạnh nghĩ đến kẻ trộm buột miệng than: Tội nghiệp quá, giá chi mình lấy được mảnh trăng thơ mộng này cho hắn thì hay quá...
Khi tâm không còn vọng ngã là lúc tâm thanh tịnh lắng đọng hoàn toàn. Cái tâm trạng của Đường Tăng Tam Tạng khi đứng trên thuyền Bát Nhã nhìn thấy xác mình trôi dật dờ dưới giòng sông Lăng Vân và tự hỏi xác ai trôi đó? Lý trí thực sự đã hủy diệt theo dòng thời gian, nghiệp chướng cũng không còn theo đuổi khi qua bến bờ bên kia. Và Đường Tăng Tam Tạng chợt ngộ thấy mình nhẹ như bông. Những trang kinh gió cuốn dập dìu như bướm trắng trên giòng sông hiện thực cuộc đời...