PHẠM THIÊN THƯ
NON CAO
TÌM ĐỘNG HOA VÀNG
THÁI TÚ HẠP
Những nhà chân tu Phật giáo ngày xưa quan niệm đi vào con đường Tôn Giáo phải xuất thế tìm nơi non cao tĩnh lặng để theo đuổi cuộc hành trình ngắn ngủi của một kiếp người. Một kiếp nhân sinh tạm bợ bằng thân xác đầy dẫy những sinh lão bệnh tử, thật cô đơn tội nghiệp hoang vu đến vô cùng buồn thảm. Nơi nương tựa thực tiễn chỉ còn cách quay về với chính cái Tâm sâu thẳm, để truy tầm sào huyệt Tâm Trí An Bình. Khi đã ngộ Tâm Chánh Niệm lúc đó mới đạt đến niềm hạnh phúc viên mãn trong đời sống. Nhiều Thiền sư đã diện bích để soi tâm, tìm chính con đường Tâm đạo:
Diệu tính hư vô bất khả phàn
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn.
(Thi Tịch)
Tính không huyền diệu vô vàn
Tâm không ngộ được nghĩ bàn gì đâu?
Núi cao ngọc cháy đậm màu
Trong lò sen thắm cho dầu lửa thiêu...
(Lời Dạy Trước Khi Mất - Thiền Sư Ngộ Ấn)
Trong kinh Phật còn viện dẫn “Chiến thắng ngàn quân không bằng tự chiến thắng mình. Đó là chiến công oanh liệt nhất”. Ông Phạm Thiên Thư như một đạo sĩ xuống núi từ Chùa Pháp Hoa và ông như người rao giảng thâm thúy về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... nhất là ông đã thi hóa Kinh Kim Cương Bát-Nhã quả là một hành động phi thường.
Mầu nhiệm thay Kim Cương!
Lạ lùng thay Kim Cương...
...Ước gì lòng tôi biến thành Kim Cương để phá tan biên giới Ta với phi Ta, để liễu ngộ sinh tử, để kết trụ vào Ta, cho cái tâm giải thoát.
Phải chăng đấy là cái tâm “Ứng vô sở trụ mà Sinh” nó đã dẫn dắt Huệ Năng về Tào Khê, nó đã làm sao cho Thái Tông khoát nhiên tự ngộ vai trò lãnh đạo nhân dân “dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục”. Vào sinh ra tử suốt cả một đời ngõ hầu thực hiện cái nghĩa vô tâm:
“Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm”
(Giáo sư Nguyễn Đăng Thục
giới thiệu Phạm Thiên Thư).
Những nhà thơ Phật giáo đa số thường thi triển nguồn cảm hứng dựa trên nền tảng tôn giáo và thiên nhiên, nhất là những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Mãn Giác... và các bậc thiền sư này đã tạo cho giòng văn học Việt Nam càng phong phú, giá trị và sâu sắc hơn những nét đặc thù của mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và dân tộc.
Sự xuất hiện bất ngờ khoảng thời gian 1969 với ba ngàn hai trăm năm mươi bốn (3254) câu thơ Trường Thiên lấy tên “Đoạn Trường Vô Thanh” được xem như hậu Truyện Thúy Kiều của thi hào Nguyễn Du. Liên tục những năm sau Nguyễn Du có Chiêu Hồn, ông có Chiêu Hồn Ca, Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu, Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ... Phạm Thiên Thư xuất hiện rất muộn và lại ngưng rất sớm, nhưng ông đã đóng góp vào giòng văn học Việt Nam những thành tích không nhỏ. Một trong những tác phẩm này, Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc vào năm 1971. Người đời đã bắt đầu yêu thơ ông qua những thi phẩm “Ngày Xưa Hoàng Thị” “Động Hoa Vàng”... được nhạc sỹ Phạm Duy phổ thành ca khúc.
Cuộc chiến đang đến hồi bùng vỡ ở nhiều mặt trận cao nguyên, miền địa đầu giới tuyến, mỗi ngày đều nhìn thấy những chiếc trực thăng trắng chở những chiến sĩ bị thương từ chiến trường về những bệnh viện ở những thành phố miền Nam, tâm trạng thanh niên hoang mang, cảm thấy đời sống buồn bã, thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như viên thuốc an thần:
...Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
Ừ, thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu, nước xuôi
Sông này chảy một giòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
...Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
...Thì thôi! tóc ấy phù vân
Thì thôi! lệ ấy còn ngần giang sương
...Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu...
(Động Hoa Vàng)
Tôi cũng đồng ý qua nhận xét của nhà văn Võ Phiến: “Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi, rước em nọ... thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em nầy em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới Kinh Hiền, Kinh Ngọc, không biết chuông mõ gì ráo, thì trong kho tàng thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt đi chứ...”
Tam Đảo Hạnh Phu (Yukio Mishima) một trong những nhà văn nổi tiếng của Nhật, ông có viết một truyện ngắn với nhan đề “Chuyện Tình Của Nhà Sư Chùa Shiga” ông đã diễn tả cái nghịch lý ghê gớm xảy ra trong nội tâm của một thiền sư giữa tình yêu và đạo lý... Cuối cùng “Thiền sư đã quyết định từ bỏ tất cả để ra đi. Lòng Thiền sư thật bình thản, trống không. Cái trống không thật viên mãn vì ông đã chiêm nghiệm được ở cái hố thẳm vô cùng tận đó chỉ là Sắc, Không...”
Cái điều ỡm ờ nửa đời nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho thế gian ngẩn ngơ, hoài nghi cái chân lý ông đang đeo đuổi. Một ông sư đã biết yêu và biểu lộ tình yêu một cách quá quắt khác thường, lãng mạn còn hơn những chàng trai bình thường mới biết yêu:
...Em tan trường về
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Mai vào lớp học
Anh còn ngẩn ngơ...
...Môi em mỉm cười
Mang mang sầu đời, tình ơi!
...Ôi! Con đường về
Bông hoa còn đẹp
Lòng sao thấm mệt
Ngắt vội hoa này
Nhớ người thuở xưa...
(Ngày Xưa Hoàng Thị)
...Em làm trang tôn kinh
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...
(Pháp Thân)
Mặc dù đang ở vào thời đại cuối thế kỷ 20, nhưng tình yêu đối với nhà sư Phạm Thiên Thư vẫn còn những cảm xúc thánh thiện, khép kín một chút bẽn lẽn khi hai người yêu nhau không dám gần nhau trong bàn tay nắm, vì sợ tình yêu sẽ tan biến đi như sương khói:
...Anh trao vội vàng
Chùm hoa mới nở
Ép vào cuối vở
Muôn thuở còn vương...
Cũng như anh chàng Xuân Diệu thời tiền chiến:
...Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ...
Im lìm không dám nói năng chi
(Trăng)
Không dám nói vì sợ âm thanh tan vỡ giây phút linh thiêng tỏ tình. Tất cả sự biểu lộ bằng ngôn ngữ im lặng. Im lặng của thủy triều phá vỡ ruộng đồng núi non không biết chừng.
...Đôi mày là Phượng cất cao
đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ
tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
tụng dòng Kinh tuệ trên tờ khói mây
...dù mai lều cỏ chân trời
khói hương lò cũ khóc người trong thơ
em còn ửng má đào tơ
tóc xưa dù có bây giờ sương bay...
Tình yêu của nhà Sư nồng nàn quá, đến nỗi con vạc bờ kinh nó cũng ghẹo nhà Sư ỡm ờ trần tục:
...Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...
(Động Hoa Vàng)
Ở cái thế giới thi ca Phạm Thiên Thư chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo tình yêu và thiên nhiên, mặc dù ông chỉ mới xuất hiện một thời gian ngắn ngủi trước khi trang sử Văn Học Miền Nam xếp lại. Nhiều người tin cho biết, nhà thơ Phạm Thiên Thư còn ngây thơ non dạ, thực hiện cuốn Kinh Hồng để ca ngợi chế độ mới, nhưng ông đã lầm khi ông chuẩn bị viết những trang đầu thì chính những “Đoạn Trường Vô Thanh”, “Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài”, “Kinh Ngọc”, “Kinh Hiền”, “Kinh Thơ...” bị hỏa thiêu một cách thê thảm chung với số mệnh những tác phẩm của những nhà thơ, nhà văn miền Nam mà chúng gọi “Sản phẩm văn hóa đồi truỵ của Mỹ-Ngụy”. Ông bị xem như nhà thơ đứng bên lề của “giòng thác thi ca Cách Mạng xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Thi sĩ Phạm Thiên Thư u buồn thất vọng não nề.
“Thôi thì thôi, chỉ phù vân
Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi...
Nhắc đến thuở vàng son trước 1975, ông là thi sĩ trẻ làm thơ say mê không biết mệt, có khi mỗi ngày ông có thể sáng tác mấy trăm câu thơ một cách dễ dàng. Nhà văn Võ Phiến có nhắc lại sự kiện nầy trên Tạp Chí Làng Văn xuất bản tại Canada: “...Cuốn Kinh Hiền mười hai ngàn câu ông viết trong một năm rưỡi: Việc Đạo phải nỗ toàn lực nên thế. Còn cuốn Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài gồm 111 bài thơ, ông cũng chỉ làm xong trong vòng hăm ba ngày. Mỗi ngày năm bài thơ, đều đều. Lý do gì vậy?... Không ai đi trách một người... làm quá nhiều thơ. Duy không biết có phải cái lượng làm hại cái phẩm chăng. Vì trong cái lượng đồ sộ nọ, số dở quá nhiều. Trong lắm bài có những câu thật hay lạc vào giữa các câu dở làm ta tiếc ngẩn ngơ...”
Nhưng có điều còn tiếc sâu xa hơn. Ở một tài năng thấu triệt Kinh Kim Cương vi diệu cao siêu đến như thế, đã ước mơ... “Kiếp sau làm chim trong sương. Về bay hóa độ mười phương trời vàng...” thì còn bon chen gì cõi tạm phù sinh. Hãy trở về Chùa Pháp Hoa diện bích, để thôi nhìn nắng quái đang đốt cháy những đóa hoa dịu dàng lung linh trong gió thoảng. Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhãn quan chỉ là khung cửa hư ngụy... thì còn thiết tha gì đối với chốn bụi hồng?