CÁI KHÔNG
TRONG THƠ THÁI TÚ HẠP
PHẠM PHÚ HAY
Trời Sài Gòn mưa ngâu. Tôi đến thăm người bạn, tình cờ gặp Thái Tú Hạp trong thi phẩm “Hạt Bụi Nào Bay Qua”:
- Đem về đọc đi. Quà của bà chị mừng sinh nhật đó. Từ Mỹ.
Tập thơ có sức hút nam châm, một phần vì lâu ngày, mong một tác phẩm nghệ thuật hải ngoại, trình bày trang nhã; phần khác, anh Thái Tú Hạp là bạn thơ hồi còn nhỏ, cùng lớp cùng trường, sau này lớn lên cùng chung chí hướng. Đã xa nhau trên 30 năm...
*
Nhớ thuở thiếu thời, nhà thơ là Huynh Trưởng gia đình Phật tử, sinh sống tại phố cổ Hội An. Chính nơi này, vào giai đoạn này, đã ảnh hưởng, hun đúc, tác động mạnh mẽ vào tư tưởng nhà thơ, tạo cho anh một dáng đứng, một cách nhìn, một hướng đi thật độc đáo, riêng biệt, rõ nét nhất trong nhiều thi phẩm trước đây nhưng phong phú hơn cả...
Có lẽ trong thi phẩm “HẠT BỤI NÀO BAY QUA”. Bàng bạc suốt 90 bài thơ là “một băn khoăn siêu hình thường trực, bởi thế giới không chỉ là một thế giới hữu hình”... (Nhà văn Mai Thảo - Đề Tựa). Anh Thái Tú Hạp đã “NGỘ” cái “KHÔNG” ẩn hiện trong cái “CÓ” của cuộc đời. Cuộc đời vô thường đầy tục lụy, từ đấy nhà thơ lý luận:
“Đời tan như bọt sóng”
(Người Tù Binh Dũng Liệt - trang 13)
“Đời huyễn tượng qua đi theo giòng nước”
(Mưa Trong Vùng Trí Tưởng - trang 41)
“Đời như huyễn hoặc cơn mê”
(Ngọn Nến Viễn Phương - trang 103)
“Đời phù hư trá ngụy”
(Chân Kinh - trang 159)
“Thoáng qua đời hư không”
(Dấu Tan Ngoài Cuộc Huyễn - trang 162)
Cho dù cuộc đời thế này hay thế kia, thì chúng ta, con người mang “thân tứ đại” cũng là nạn nhân của nó trong biến hóa khôn lường của vũ trụ:
“Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, nọ sông cát bồi...
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nửa kiếp, xa xôi dặm về
Trông ra bến Hoặc bờ Mê
Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương”...
(Nguyện Cầu - Vũ Hoàng Chương)
Sống trong trời đất, con người như “Hạt Bụi”, như “giọt sương”, như cái gì mong manh nhất:
“Thân như sương đọng trên cành đông mai”
hoặc:
“Cuộc đời chớp lóe mưa bay
Càng đi càng thấy dặm dài nỗi không...”
(Đoạn Trường Vô Thanh - Phạm Thiên Thư)
“Hạt Bụi Nào Bay Qua”, nhà thơ Thái Tú Hạp cũng cùng một tầm nhìn, một nhận định với họ Vũ và họ Phạm về cuộc đời và con người:
“Qua từng sát na mầu nhiệm
Ôi! Kiếp người hư vô”
hoặc:
“Trên sân khấu đời vô vị
Tàn phai những ảo giác phù sinh
(Xin Người Hãy Quên - trang 11)
Con người, sinh ra đời vốn đã khổ “Hữu thân hữu khổ”. Cái khổ nào hình như cũng bắt nguồn từ ý muốn mà con người để “phục vụ” cho cái thân. Ý muốn đó chính là nghiệp chướng, nó thúc đẩy, cuốn hút các ham muốn, dục vọng con người:
“Tham mê là lụy trần hồng
Trăm năm nào dễ một lần thoát ra...”
(Đoạn Trường Vô Thanh - Phạm Thiên Thư)
Vì không “thoát ra” được cái vòng lẩn quẩn có, không, sanh, tử của cuộc đời nên con người phải khổ:
“Mỗi ngày thêm đê tiện,
Quanh quẩn cơm áo hèn,
Đời buồn như con thú
Chết dần trong cô đơn...”
(Nhớ Mẹ - trang 118)
Hoặc:
“Quanh em ngụy quân tử,
Thuyết giảng lời điêu ngoa,
Rao truyền đạo đức giả
Mỗi ngày thêm xót xa...”
(Doanh Doanh - trang 144)
Nỗi ô nhục của cuộc sống là đầu mối của sự phẫn nộ như nhà thơ Như Không đã viết:
“Ta muốn đập tan thể xác này
Trở về cõi giới của ta xưa...”
Nhưng thân phận con người chẳng làm gì hơn ngoài sự chấp nhận và chịu đựng; cái chết chẳng phải là lối giải thoát hợp lý. Trong suy nghĩ miên man “Trắng tay phiêu bạc đời hư ảo” - “Say chén rượu trầm luân” nên “Sóng sầu nghiêng ngã mảnh hồn tôi” chỉ vì ”Tâm ta còn mê hoặc”. Sự mê hoặc này dẫn tới những đau khổ mới, mà tình yêu là nỗi niềm phiền não muôn thuở:
“Tiền kiếp nào gặp nhau,
Hạt sương đầu cành gió,
Ngẩn ngơ hồn thương đau
Khi nụ tình vừa chớm”
(Chợt Ngộ - trang 170)
Nhà thơ bâng khuâng. Có phải duyên là nghiệp - “Nghiệp từ mấy thuở trần duyên” nên giải bày:
“Từ trong thiên cổ tri âm,
Tiễn nhau xuống núi cưu mang kiếp sầu
(Thanh Tịnh Khúc - trang 205)
Cuộc tình nào cũng đẹp nhất là “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” nhưng đồng thời là cái “đau ngút tận trời xanh”, trăn trở, vò xé, nghiệt ngã. Và rồi cuối cùng, chẳng còn gì tồn tại trên quả đất này, kể cả tình yêu:
“Trăm năm chừng ghé lại
Tìm chút thảo nguyên xưa.
Chỉ nghe sầu hiu hắt
Trong mắt người giăng mưa...”
(Thảo Nguyên - trang 53)
Nhưng con đường giải thoát đã mở rộng đón nhà thơ, đón cả những ai cùng chung cảnh ngộ “Mời em chiều hát với kinh”:
“Ta về phủi bụi trần gian
Nghe kinh Bát Nhã gõ trang luân hồi”
Hoặc:
“Ta về cổ tự nghe kinh
Suối mây chim hót trên cành tĩnh tâm”
Như cụ Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”... Nhà thơ Thái Tú Hạp đã lặp đi lặp lại chữ tâm trong hầu hết các bài thơ “Hạt Bụi Nào Bay Qua”:
“Em hỏi ta căn nhà vĩnh cửu,
Ta soi tâm thấu triệt vô thường
(Ngộ - trang 176)
Hoặc:
“Vườn xuân chưa trổ nụ hồng
Em về từ cõi sắc không dấu hài
Trăm năm tiếng hót nguyên khai
Tâm bao dung nở cành mai nhiệm màu”
(Tâm Khai - trang 182)
Tâm là cái gì không thấy, không nghe, không sờ mó được, nó là không. Nhưng nó lại có tất cả. Có nghe, có thấy, có sờ mó, có hành động của con người. Nó là trung tâm quyền lực cao nhất trong thế giới mỗi người. Nó chính là Đạo: “Đạo từ tâm khởi đem tâm diệt”. Nhà thơ đã xây hạnh phúc “giữa mùa xuân Pháp Hoa”, ở đó “có nụ cười Bồ Tát”. Thật là quan điểm tuyệt vời trong “Hạt Bụi Nào Bay Qua”.
Đạo thật là đạo của tình thương rộng giữa người và người, người và dân tộc, đất nước, nhân loại chúng sanh. Nhà thơ Thái Tú Hạp đi từ cái “CÓ” trở về cái “KHÔNG”, đó chính là cái “ĐƯỢC” của nhà thơ trên toàn thể cái “MẤT” vì cuộc đời đen bạc. Cái “ĐƯỢC” này là một ý nghĩa lớn lao, không dễ mấy ai cũng làm được vì ngoài kia, xã hội nhố nhăng bon chen quỷ quyệt mà con người đang hụp lặn trong đó đến ngộp thở, sa lầy để mưu cầu cái sống giả tạm, bất chấp đạo đức.
Tôi cho đó là thái độ chọn lựa khôn ngoan nhất và đó cũng là cách đầu tư cho cái “KHÔNG” ở mai sau tốt đẹp vĩnh cửu nhất.
Sài Gòn tháng 7 Bính Tý.