THÁI TÚ HẠP - THI SĨ
CỦA TÌNH YÊU SIÊU THOÁT
Phiếm Luận của NGUYỄN TRIỆU NAM
* “Cho nhau một lần, phiền muộn cả trăm năm”: bi ái nhiễm, khổ đau nhưng Thái Tú Hạp không bi lụy như thi hào Pháp Alfred de Musset. Anh là “Thi sĩ của Tình yêu siêu thoát”, tin vào thuyết luân hồi.
* Phải chăng người thục nữ Tây Phương, biết thông thạo tiếng Việt, có đủ công dung ngôn hạnh kia là nhân vật có thật trong cõi phù thế này và là hậu thân của Hoàng Hoa: một sự ứng nghiệm của luân hồi? Hay đó chỉ là mẫu người được nhào nặn, tu tạo trong ảo giới?
* Hãy đặt lên bàn cân, coi xem cán cân nghiêng về phía tình nhân tiền kiếp tái sinh hay về phía người từng đồng cam cộng khổ, thăm nuôi thi sĩ, từng vào sinh ra tử, vượt biển tìm tự do với anh.
* Thái Tú Hạp mới chỉ đặt hồn mơ ngủ trên thềm Tôn giáo. Thơ anh tản mạn, lãng đãng như những áng mây bềnh bồng phiêu diêu trên ranh giới vô minh giữa cõi Ta-bà và Xuất-thế-gian.
Chiều đông ấy, khi đặt chân lên phi trường Los Angeles, tôi được một bà Việt kiều tặng cho tờ báo SAIGON TIMES. Trong thời gian chờ đợi thân nhân đến đón, tôi đọc hết tập báo trong đó có chuyện Hoa Vàng Thiên Thu của Đan Thanh và mấy bài thơ của Thái Tú Hạp. Bài cùng nhan đề “Hoa Vàng Thiên Thu” có bốn câu hàm xúc, hợp cảnh mình:
trong hồn em có mưa sa
mùa đi vàng võ cội hoa nhân tình
cho dù lỡ kiếp ba sinh
trong ta nguyên thủy trăng xanh cuối ngàn
Bốn câu thơ ấy làm cho tâm tư tôi giao động, ngậm ngùi. Mới đêm qua còn cùng nhau thưởng trăng trên bến Bạch Đằng, giờ đã ở Thành phố Thiên Thần rồi. Cả một quá khứ ngọc ngà, tưởng đã lịm chết, bỗng hồi sinh trở lại. Buồn mênh mông. Một vấn vương, nuối tiếc dầy vò, dằng co trong trí tưởng. Chợt nghĩ ra, vô tình thôi, Thái Tú Hạp đã viết trúng ý ta. Dám tự hào: tình ta kiên trung bất nhị ví như “Trăng Xanh Cuối Ngàn” chiếu diệu từ nguyên thủy hồng hoang đến nay, mặc cho vật đổi sao dời... Sau ngày ổn cư ở El Monte rồi, ta mới đọc thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua của Thái Tú Hạp. Tứ thơ trùng điệp, khai phóng và bát ngát. Khó mà tổng kết cho hết dẫu có nghiền ngẫm kỹ tập thơ dầy hai trăm lẻ chín trang (không kể phần phụ lục). Cho nên chỉ bàn lông bông về một chủ đề thôi. Chủ đề Tình Yêu, đề tài muôn thuở của thi văn. Tình yêu nơi Thái Tú Hạp. Vì lẽ chuyện hoa vàng bắt nguồn từ thi phẩm của anh cho nên đề cập tình yêu trong thơ anh không phải là việc vô ích. Vậy hãy hỏi: phải chăng người thục nữ mắt xanh, tóc vàng, biết thông thạo tiếng Việt, có đủ công dung ngôn hạnh kia là nhân vật có thật trong cõi phù thế này và là hậu thân của Hoàng-Hoa: một sự ứng nghiệm của luân hồi? Hay đó chỉ là mẫu người được nhào nặn, tu tạo trong ảo giới mặc dầu Thái Tú Hạp đã gián tiếp giải đáp:
ta về cổ tự nghe kinh
suối mây chim hót trên cành tĩnh tâm
hoa vàng xưa gặp cố nhân
sợi tơ nhân ngãi, trăm năm đợi chờ
vầng trăng từ cõi nguyên sơ
hỏi nhau lá trúc thắm tờ Kim Cang
(thắm tờ Kim Cang)
Duyên nợ nào đây? Không lẽ do ngẫu nhiên mà một sự quảng cáo tác phẩm được thi vị hóa khéo léo, ý nhị và đượm nồng đến thế. Ý thơ Thái Tú Hạp tỏa bao la, chứa chan trữ tình, phong phú ngấn tích tình sử tiềm ẩn trong cảnh trí bàng bạc chất Thiền hòa-quyện hương vị Đường Thi. Tình sử hoa vàng được ghi dấu bằng niên hiệu triều Nguyễn. Năm Bảo Đại thứ bốn mươi. Ủa! Ông Hoàng Vĩnh Thụy làm vua lâu đến thế cơ ư? Không! Đó chỉ là nét chấm phá linh hoạt gia tăng thêm vẻ mỹ miều, thanh tú của thiên tình sử xuyên không gian, thời gian mà thôi. Tựa hồ nét chấm phá tài tình, đầy sáng tạo của họa sĩ trên bức tranh sinh động, rực rỡ sắc mầu. Ghi niên hiệu Bảo Đại thứ bốn mươi là mặc nhiên sửa lại lịch sử. Hay nói cách khác, coi sự “đổi đời”, sự “cộng nghiệp lao lý” như không hề có. Hai sự ấy đã không hề có thì ách thống trị của cộng sản cũng không có luôn. Hay, nói rõ hơn, chỉ là việc cưỡng đoạt quyền bính nhất thời. Không khí huyền sử bao trùm hết. Như hư, như thực. Thơ mộng biết bao! Mối tình lỡ dở từ tiền kiếp được mãn nguyện kiếp này với sự vẹn nguyên được phục hồi. Thế nhưng Định mạng, vốn hay dỗi hờn, đâu có chiều lòng người. Bên cạnh cái tìm lại được vẫn có nhiều cái mất mát vui nên cảnh trớ trêu, ai oán, đến nỗi nhà thơ đa sầu đa cảm phải ta thán khi viếng thăm cảnh cũ với...
hàng cây khô nội thành câm lặng đứng
lệ của Trời hay Tôn Nữ chờ mong
loài hoa dại trong vườn Thu Thượng Uyển
người đã quên từ lúc bỏ hoàng cung
(từ lúc bỏ hoàng cung)
Thi hào Pháp Alfred de Musset từng được mệnh danh là “Nhà thơ của đau khổ”. Ta cũng có thể tặng Thái Tú Hạp danh hiệu “Thi sĩ của Tình yêu siêu thoát”. Có nghĩa là anh đã từng đau khổ nhiều vì yêu nhưng không hề bi lụy. Vì anh tin vào thuyết luân hồi:
ta về tịch mịch ngàn hoa
lá cao vút đẫm mây qua đỉnh trời
nhân gian dành trọn cuộc chơi
ta cùng em hát bên đồi xuân xưa
nhất quán rồi - mộng mai sau
tâm vô lượng mở có nhau luân hồi
(luân hồi có nhau)
Đối chiếu với những bài thơ đăng rải rác trong Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San...cách đây hai mươi năm, nhận thấy thơ Thái Tú Hạp vẫn giữ nguyên phong độ của một kẻ sĩ tiết tháo, đại lượng, cũng như cung cách trân quý của một ý trung nhân chí tình, chí nghĩa. Trong thơ anh có sự chuyển hóa thanh thoát về tư tưởng. Hơi thơ anh sung mãn, dạt dào như suối bạc. Triết lý Phật giáo và công án Thiền đã gây ảnh hưởng lớn trong thơ anh. Đọc thơ Thái Tú Hạp mà nếu gạt tình yêu sang một bên thì tưởng như đó là lời quảng diễn của một nhà tu hành. Mặc dầu vậy, thơ anh không hẳn là một thứ thơ thuần túy tôn giáo. Từ ngữ rút ra từ kinh Phật chỉ là phương tiện cho thi sĩ chuyên chở tư tưởng đến độc giả mà thôi. Chẳng qua là cái cảnh:
thềm tôn giáo ta đặt hồn mơ ngủ
(Quách Thoại)
Thái Tú Hạp đang mơ ngủ trên thềm tôn giáo. Giấc chiêm bao của anh thật là đẹp. Đẹp nhưng chập chờn, chơi vơi. Cố vùng ra thoát khỏi vòng phong tỏa của tham sân si mà vẫn không sao tránh khỏi huyễn mộng và ác tính. Thơ anh tản mạn, lãng đãng như những áng mây bềnh bồng phiêu diêu trên ranh giới vô minh giữa cõi Ta-bà và Xuất-thế-gian Vô ưu:
ngàn mây trắng bay qua
tiếng kinh khuya vọng lại
ngõ trúc chiều chia xa
sớm mai nào chợt ngộ
tâm ta tưởng là hoa
trong sắc mầu giả tưởng
có không nào trong ta
(Chợt Ngộ)
Thái Tú Hạp viết khá đều tay. Trang trọng. Cẩn thận. Nghiêm khắc với chính mình. Ở thơ anh, thiếu vắng hẳn sự buông phóng ý thức bảo tồn chất tinh tuyền của thi ca. Sự phá vỡ thành lũy của định thể xét ra không cần thiết. Thi phóng anh dàn trải tự nhiên, sáng sủa, lưu loát. Vần gieo khít khao, tiết tấu hài hòa. Anh chọn chữ rất khéo và đúng. Tuy điệp ngữ (như ta-bà, vô thường, vô lượng...) nhưng không điệp ý. Không kiểu cách. Không cầu kỳ. Không đặc dị. Không có những tiếng sáo trống rỗng.
Tagore, thi hào Ấn Độ viết:
Nàng đã chết một lần
Ru hồn ta thống thiết
Lời bi ca da diết
Nức nở suốt nghìn thu
Bởi lẽ không phải là Thái Tú Hạp, “Thi sĩ của Tình yêu siêu thoát’, nên đã bi lụy, đã khóc. Quả thế, khóc cho vơi niềm đau thế tục. Nhưng nhà thơ của chúng ta lại không nhỏ lệ. Vì anh tin vào thuyết luân hồi. Người đẹp Hoàng-Hoa trong thơ anh không chết một lần như ái-nhân của Tagore. Nàng chết hai lần. Một lần ở tiền kiếp trên quê hương nghiệt ngã khốn cùng. Một lần ở hậu kiếp khi đầu thai thành thục nữ Tây Phương. Nhưng hãy hỏi nhà thơ đa tình: anh đã thật sự có người con gái tóc vàng mắt xanh ấy trong “tận cùng đất khổ” không? Hay là người mà anh đã thật sự có trong cõi sống cùng khổ ấy lại chính là người đồng cam cộng khổ, thăm nuôi anh, từng vào sinh ra tử, vượt biên tìm tự do với anh? Hãy đặt lên bàn cân, coi xem cán cân nghiêng về phía tình nhân tiền kiếp tái sinh hay về phía người đã cùng anh nên nghĩa đá vàng. Ai đáng được biểu dương? Thật tình không cầm lòng nổi khi đọc đoạn thơ thắm thiết dưới đây:
mùa xuân từ độ bao dung
tiếng chung thủy ở tiếng đường mật vui
tiếng hờn ghen tiếng ngậm ngùi
tiếng đau dao cắt tiếng mùi mẫn yêu
lúc khuya sớm thủa quê nghèo
lúc chinh chiến lửa phận treo tuổi mình
lúc ngã ngựa khi tàn binh
lúc non cao vẫn trọn tình thăm nuôi
trùng dương u thảm phận người
quẩn quanh hải đảo tiếng cười đắng cay
xa rồi thác lũ trời tây
đời hư ảo thoáng chim bay cuối ngàn
đất trời thơm ngát lộc non
cho ta xuân thắm vô vàn yêu em.
(mùa xuân yêu em)
Giờ, bàn dông dài về nhan đề thi phẩm (mặc dầu sách đã trình làng). Tại sao tác giả lại đặt là Hạt Bụi Nào Bay Qua? Đếm được bụi sao mà lại chỉ đích danh hạt bụi nào đó? Ấy, nỗi u uất khó tiêu trầm, khó tống xuất ra khỏi chủ cảm của thi sĩ nó là thế đó. Hạt Bụi Nào Bay Qua là đã tan vào không khí. Niềm vui phù vân cũng biến luôn vào Hư vô. Chung quy, chuyện quá thường. Có gì đáng bận tâm. Vậy mà Thái Tú Hạp vẫn bận tâm. Vì lẽ một hạt bụi có thể làm giao động, vẩn đục tâm hồn trong sáng như gương hồ thủy. Có khi còn gây gió bão cho cõi lòng nữa.
sá chi đời hạt bụi
trong mắt em ngậm ngùi
(dặm ngàn tịch lặng)
Đâu phải là không chấp nê một hạt bụi vương vào mắt hay một hạt bụi diễu cợt con người khao khát niềm vui, mặc kệ sự phá phách bên ngoài mà đã tránh được cái tâm, định được cái khí, giải thoát được mình ra khỏi cơn u muội phiền não. Đọc đi đọc lại thi phẩm của Thái Tú Hạp mà suy ngẫm về phận mình lận đận, nổi nênh trong khổ hải. Gấp sách lại, lòng cứ bâng khuâng mãi, xoát xa mãi. Vì không có cách nào thu hồi được những mất mát đáng tiếc do tác động vô thức của những hạt bụi gây nên.