PHỎNG VẤN
NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP
NGUYỄN MẠNH TRINH THỰC HIỆN
NMT: Xin anh cho biết vài dòng về tiểu sử của mình?
TTH: Sinh tháng 4. 1940 tại Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Trước năm 1975 Sĩ quan QL/VNCH. Đã từng phụ trách Chiến Tranh Chính Trị ở cấp Đại đội, Chi khu, Báo chí, phát thanh thuộc phòng Tâm Lý Chiến Quân Đoàn. Sau tháng 4. 1975 đi tù nhiều năm tại Kỳ Sơn, Quảng Nam. Nhờ vợ là người Hoa làm đơn bảo lãnh về địa phương để “hưởng ân huệ tống xuất ra khỏi Việt Nam” theo chính sách bài Hoa Kiều kịch liệt trên toàn lãnh thổ Việt Nam năm 1978. Tôi thường gọi đùa “Thoát nạn qua kẽ hở lịch sử”. Trong thời gian chờ đợi thủ tục dâng hiến tài sản tại địa phương tôi đã đi xe thồ, làm công nhân hợp tác xã Quế ở Đà Nẵng. Sau đó vượt biển đến trại tỵ nạn năm 1980. Học Graphics Design & Printing hai năm. Phụ giúp vợ về các dịch vụ thương mại đại diện in lịch từ Hongkong, Đài Loan, mở nhà hàng Doanh Doanh ở gần Chinatown, Los Angeles kiếm sống qua ngày. Cuối cùng do bạn bè thúc đẩy và khuyến khích từ tinh thần đến vật chất nên vợ chồng đứng ra làm báo Saigon Times. Tình trạng gia đình: Hai trai và một gái. Hiện cư ngụ tại vùng Rosemead, Los Angeles, California, Hoa Kỳ.
NMT: Xin anh vui lòng cho biết thêm về những hoạt động văn học nghệ thuật mà anh đã đóng góp?
TTH: Từ năm 1956 đến năm 1975, đã liên tục đăng thơ trên các tạp chí Văn Học ở Saigon như Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn Học, Khởi Hành, Gió Mới, Nghệ Thuật, Thời Nay, Mai...
- Bản thảo đã hoàn tất: Người Đi Chiến Chinh (tạp bút 1968), Quê Hương và Người Tình (thơ 1969), Vành Khuyên (tập truyện 1972), Yêu Em Một Đời (thơ 1973), Dưới Cội Mai Vàng (thơ 1974).
Ngoài điều hành tuần báo Saigon Times từ năm 1987, chúng tôi còn chủ trương nhà xuất bản Sông Thu từ năm 1988.
- Tác phẩm đã xuất bản: Truyện Tập Sông Thu (thơ 1962) vời Thành Tôn và Hoàng Quy, Thèm Về (thơ 1970), Chim Quyên Lạc Ngàn (thơ 1982), Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại (tuyển tập 1-1985), Miền Yêu Dấu Phương Đông (Thơ 1987), Thơ Văn Phật Giáo (Tuyển Tập 1993), Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ 1995)
- Sẽ xuất bản nay mai: Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại (Tập 2), Bên Ngàn Lau Xanh (Tùy bút). Tuyển Tập Thơ Nhạc (Thơ Thái Tú Hạp và nhiều nhạc sĩ), Giở Trang Vô Tự Trắng Nhòa Sắc Không (thơ).
NMT: Trước 1975, anh sinh sống ở miền Trung nhưng lại hay xuất hiện ở những tạp chí xuất bản ở Saigon. Có phải anh là một trong những người cầm bút thường gọi là “nhà văn trẻ miền Trung”?
TTH: Hầu như tất cả những tạp chí Văn Học ấn hành ở Saigon đều xuất hiện những sáng tác của anh em chúng tôi thời đó như Hà Nguyên Thạch, Luân Hoán, Phan Nhự Thức, Phương Tấn, Triều Hoa Đại, Đinh Hoàng Sa, Huy Giang, Vũ Hữu Định, Nguyễn Nho Nhượng, Hoàng Lộc, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Dạ Lữ, Nguyễn Đông Giang, Nguyễn Kim Phượng, Hồ Minh Dũng, Mường Mán, Trương Duy Hy, Hoàng Thị Bích Ni, Trần Quang Lộc, Hạ Quốc Huy, Vương Thanh, Nguyễn Nho Sa Mạc, Đinh Trầm Ca, Thành Tôn, Lê Vĩnh Thọ, Vĩnh Điện, Lâm Quang Phước, Đông Trình, Huy Giang, Lê Đình Phạm Phú, Hoàng Quy, Thái Tú Hạp...điều đó đủ thẩm định sự đóng góp tác phẩm của chúng tôi trong những sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật ở Thủ Đô. Chúng tôi cảm ơn những cảm tình quý vị đã dành cho anh em sáng tác ở miền Trung trong thời điểm trước 75 bằng những khích lệ cụ thể.
NMT: Anh bắt đầu cầm bút lúc nào? Từ những dòng chữ viết đầu tay có kỷ niệm nào đáng nhớ?
TTH: Thật sự tôi không nhớ mình bắt đầu làm thơ từ bao giờ, chỉ loáng thoáng ở tuổi học trò, khi biết ngẩn ngơ trước đôi mắt nai của người bạn gái học chung trường hồi đó. Một trong những bài thơ được đăng trên Thời Nay khoảng 56-57 gì đó, “Làm Chim Trong Thành Phố Nhỏ”... đại khái những câu: “Anh xin làm chim trong thành phố. Hót sớm mai cho em dậy học bài. Ru giấc ngủ chiều trăng bên khung cửa. Lòng ta buồn thương nhớ vu vơ...” Và thêm một kỷ niệm đáng nhớ nữa. Những năm Trung học chúng tôi (Hoàng Quy, Thành Tôn hay làm thơ cho nhau xem và rủ nhau về quê Đại Bình Trung Phước, quê hương của Hoàng Quy, Tường Linh, Bùi Giáng...Tôi vô cùng thích thú trước cảnh đẹp thiên nhiên nơi núi rừng dấu yêu của bằng hữu, tôi viết bài thơ “Tình Quê” gởi cho mục Thơ trên nhật báo Tự Do năm 1957 phát hành tại Saigon, do Thi Sỹ Vũ Hoàng Chương phụ trách. Bài thơ dài có đến gần cả trăm giòng thế mà Thi sỹ họ Vũ chọn đăng nguyên tác không cắt xén đoạn nào lại thêm lời bàn vô cùng ưu ái và khuyến khích nhiệt tình. Đến cả mười năm sau vào đời, trưởng thành, có dịp vào Saigon đến thăm Thi Sỹ. Cụ vẫn nhớ bài thơ năm cũ làm cho tôi vô cùng xúc động những tình cảm Cụ đã dành cho kẻ yêu thơ hậu sinh ở miền Trung.
Một kỷ niệm đáng nhớ khác trong thời gian ở tù về địa phương quản chế, tôi sáng tác nhiều thơ và văn chương nhưng khi vượt biển vì sợ chính quyền địa phương tịch thu nên vợ tôi và tôi cặm cụi viết thật nhỏ vào giấy mỏng may vào vành nón cho đứa con trai đội bình thường, chuyến vượt biển bị chìm tàu chết 13 người, may có tàu đánh cá HongKong ở gần đó đến vớt kịp, dĩ nhiên khi lên bờ mỗi người chỉ còn vỏn vẹn bộ đồ mặc trên người. Tất cả đồ đạc vốn liếng tinh thần cuối cùng mang theo đã trả về cho cát bụi.
NMT: Hiện nay anh vừa làm báo vừa viết văn, làm thơ. Hai công việc ấy có gì bổ sung cho nhau hoặc có gì trở ngại cho nhau?
TTH: Sống đời lưu vong mấy ai diễm phúc được trở lại nghề cũ của mình mà cưu mang được cuộc sống cơm áo. Tôi là một trong những người may mắn chăng? Ở Việt Nam thực sự chỉ làm báo thuần túy Văn Nghệ không lo cạnh tranh và không sống bằng ngòi bút của mình. Làm báo ở hải ngoại quá dễ mà cũng thật quá khó. Dễ là ai cũng có thể làm báo được, viết gì thì viết không bị cắt xén vì kiểm duyệt. Nhưng rất khó ở lương tâm người cầm bút. Con đường từ bạn đến thù quá ngắn. Viết văn, làm thơ, làm báo, thực sự những công việc nầy đều liên hệ mật thiết và bổ sung cho nhau. Tờ báo đúng nghĩa theo quan niệm của một người làm báo có lương tâm nhà nghề, tối thiểu phải cố gắng có nội dung phục vụ người đọc. Dĩ nhiên một, hai người không thể nào cáng đáng nổi, phải nhờ vào sức viết của nhiều nhà văn, nhà báo tiếng tăm cộng tác. Chúng tôi mong mỏi được đem đến mọi gia đình người Việt lưu vong món ăn tinh thần đúng nghĩa sau một tuần chạy đuổi theo đời sống quá mỏi mệt và nhiều căng thẳng.
NMT: Nguyên nhân khiến anh cầm bút, và có mục đích gì? Để nổi danh? Để tâm sự với chính mình? Hay tâm sự với người khác? Hoặc làm công việc mình thích?
TTH: Xin anh cho được dông dài một tí, khi nhỏ tôi sống nhiều với ông bà ngoại ở làng Cẩm Phô ven thị xã Hội An (cùng quê bên nội của giòng họ cố nhà văn Nhất Linh Nguyễn Trường Tam), ngôi nhà ở dưới tàng cây đa sầm uất, chuyên buôn bán cau khô và những thổ sản của người miền Cao nguyên Trà Mi, Tiên Phước đem xuống bán ở Hội An. Phía sau nhà thoai thoải ngọn đồi nhỏ là ngôi chùa Viên Giác. Buổi chiều tôi hay ngồi một mình ở trước hiên nhìn nắng chiều xuyên qua vòm lá thẫm, đàn dơi rủ nhau về kêu những tiếng buồn não ruột, và tiếng chuông chùa khua động trong không gian chiều tịch lặng, bỗng dưng tôi cảm thấy... không hiểu vì sao tôi buồn...và lớn lên đôi chút, rung động bất thường đó có lẽ đã đưa tôi vào thế giới thơ lúc nào không biết. Và rồi tình yêu là yếu tố thúc đẩy tôi liều lĩnh đi vào cõi thơ như một hệ lụy hạnh phúc suốt cả một đời. Cho đến bây giờ gần bốn mươi năm qua làm thơ tôi vẫn cho là chuyện mình thích từ những xúc động ngoại cảnh bắt gặp.
NMT: Theo anh, làm thơ có phải là thực hiện một sứ mệnh nào cao cả? Hay cũng chỉ là một công việc bình thường?
TTH: Tôi vẫn cho chuyện làm thơ đâu có gì quan trọng, nhất là dân Việt Nam mỗi người là một nhà thơ. Qua kinh nghiệm lịch sử, một số thi sỹ thời tiền chiến đã tự hủy đứa con tinh thần để bắt thơ mang một sứ mệnh. Và chính những bài thơ sứ mệnh đó đã giết chết tên tuổi người sản sinh ra nó.
NMT: Điều gì gây hứng cảm để anh làm thơ? Và điều gì hứng cảm để anh viết văn? Hai cảm hứng ấy có gì khác với nhau?
TTH: Ngoại cảnh tạo cho mình cảm hứng. Tình yêu,
bằng hữu, tình quê hương, cái vô thường của nhân sinh và sự đổi thay của đời sống. Cảm xúc đến nhanh và tan nhanh như giọt sương trên cành lá biếc. Hứng cảm của thơ thoáng chốc cô đọng. Hứng cảm viết văn nuôi dưỡng dài lâu như nhà thể thao chạy đường trường đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ hơn, nên tôi không sở trường lắm, chỉ thỉnh thoảng viết được dăm bài tạp ghi, một số truyện ngắn. Những điều mình dàn trải tâm tư mà ở khuôn khổ thơ không cho phép thì hãy mở cửa, tha hồ bơi lội trong giòng sông mênh mông của Văn. Nhưng với tôi dành nhiều thời gian sáng tác thơ hơn. Lúc trẻ thì sôi nổi chạy đuổi theo dấu chân Apolinaire,Baudelaire, Chateaubriant, Lamartine... những Xuân Diệu, Huy Cận, Hồ ZDếnh, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương...đầy thơ mộng lãng mạn, đến lúc vào quân đội đi tác chiến đối diện với tử sinh vô lý thường nhật, rồi biến cố lịch sử đau thương xảy ra anh em vào tù, mỗi ngày nhìn thấy những cái chết phi lý chung quanh, những nghiệt ngã tận cùng phải chịu đựng, nỗi niềm xót xa thân phận làm người. Như anh thấy tư duy này bàng bạc trong các tập “Chim Quyên Lạc Ngàn”, “Miền Yêu Dấu Phương Đông” và “Hạt Bụi Nào Bay Qua”. Đến lúc tuổi càng cao tôi càng thích thú và yêu mê cõi vào thế giới thanh thoát của đường thi.
NMT: Anh làm thơ có dễ dàng không? Hoàn thành một bài thơ, thời gian có lâu không?
TTH: Cũng có khi dễ, cũng có lúc khó khăn tùy theo cảm hứng. Thường thời gian lệ thuộc cảm hứng nhiều hơn.
NMT: Anh có thường hay sửa chữa thơ khi hoàn tất không? Theo kinh nghiệm riêng anh, thơ saukhi sửa chữa sẽ hay hơn hoặc tệ hơn? Và nguyên bản lúc đầu khi sửa chữa có còn giữ được ý tưởng manh nha ban đầu hay sẽ khác đi?
TTH: Tôi vừa trình bày, thơ phải sáng tác theo cảm hứng. Cảm hứng là linh hồn của bài thơ. Tôi sáng tác rất nhiều song giữ lại chẳng bao nhiêu. Nhiều khi cảm hứng bất chợt đến, tôi viết một mạch xong bài thơ đọc lại vài lần thấy không cần thiết sửa chữa xem như chấp nhận sự hoàn chỉnh, nhưng cũng có trường hợp phải sửa chữa vài ba lần tôi mới bằng lòng, dĩ nhiên phải đạt hơn chớ. Có nhiều đoạn trong một bài thơ gần cả hai chục năm sau, đọc lại vẫn còn cảm thấy thích thú.
NMT: Theo anh, một bài thơ hay phải hội đủ yếu tố nào?
TTH: Khó mà thẩm định một bài thơ hay theo nhận xét tuyệt đối chung của nhiều người, có thể có người cho rằng thơ của Cao Bá Quát, của Thanh Tâm Tuyền, Bà Huyện Thanh Quan hay, có nhiều người cho thơ của bà Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tản Đà, Đinh Hùng, Nguyễn Bính xuất sắc. Có nhiều người không thích đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà chỉ thích Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi. Nhưng ở đây, tôi muốn nêu lên trường hợp tương đối, một bài thơ hay phải chuyên chở hồn tính, có nhạc điệu dễ truyền đạt cảm xúc từ tác giả đến độc giả. Nhận xét và phát biểu một cách nhà quê: Một món ăn hợp khẩu vị được chấp nhận là món ăn ngon chứ không phải do cách thức trình bày món ăn đẹp đẽ màu sắc hấp dẫn trên những chén đĩa chạm trổ ngọc ngà sang trọng.
NMT: Anh có để ý đến thể loại của bài thơ mình sẽ sáng tác lúc ban đầu?
TTH: Khi cảm hứng chợt đến mình vội vã ghi lại thành thơ. Sự sáng tạo của thơ xảy ra một cách đột nhiên và không suy tính. Đôi khi có những trường hợp ngoại lệ, nguồn cảm hứng của thơ triền miên dẫn dắt nhà thơ cuốn hút vào sự mê đắm và cấu trúc nên thể điệu thơ có vần hoặc tự do tùy ý. Chỉ ghi lại cảm xúc rồi biến hóa thành thể loại sau.
NMT: Thơ Tự Do và thơ có vần, anh thích làm thể loại nào? Và loại nào khó hơn?
TTH: Đa số bạn bè biểu lộ tình cảm đối với tôi nhiều hơn trong những bài thơ có vần điệu ở ngũ ngôn và lục bát. Trong những tập thơ đã ấn hành, số lượng những bài thơ có vần điệu thường chiếm đa số. Lúc tôi mới bắt đầu làm thơ chẳng khác nào người học lái xe, phải qua những quy luật, đến khi lái giỏi rồi tha hồ nhấn ga, thả tay, nghe nhạc...Tôi vẫn thích thơ có vần điệu dễ nghe hơn, cho dù chúng ta làm mới từ ngữ.
NMT: Anh có suy nghĩ nào về công việc làm mới thi ca? Theo anh thế nào là làm mới thi ca?
TTH: Tôi có theo dõi một số nhà thơ hiện nay họ đang cố gắng khai phá một hướng đi mới của thi ca Việt Nam. Không phải hơn hai mươi năm sau mới có hiện tượng “thực hiện cuộc cách mạng thi ca mà anh gọi làm mới thi ca”. Trước đây đã có những quá trình tiến triển của thi ca Việt Nam để mong bắt kịp trào lưu tiến bộ của thi ca thế giới, như chúng ta đều biết, những khuynh hướng tả chân, lãng mạn, tượng trưng, hiện sinh, siêu thực...nhưng cuối cùng những bài thơ đích thực xúc động mang hồn tính tuyệt vời của nghệ thuật mới chính là nét đẹp giá trị của thi ca, cho dù sáng tạo dưới bất cứ một thể loại và khuynh hướng nào. Tất cả đều phải thử thách qua thời gian và sự thẩm định của nhân gian. Nhưng tôi vẫn nghi ngờ - có lẽ bảo thủ - những bài thơ lục bát ngắt câu ngắt đoạn sẽ trường thọ và được những người yêu thơ đón nhận dễ dàng!?
NMT: Thơ mới và thơ hay có phải là một? Hoặc có nhiều phân biệt giữa hai danh từ này?
TTH: Không nên có sự nhầm lẫn thơ mới và thơ hay là một. Thơ mới chưa hẳn là thơ hay và thơ cũ chưa hẳn là thơ dở. Ông Robert Payne đã sưu tầm vài trăm bài đường thi chuyển dịch ra Anh ngữ, ấn hành năm 1947 để cho người Mỹ đọc dưới nhan sách “The White Pony - An Anthology of Chinese Poetry”. Chỉ một bài thơ Lộc Trại của Vương Duy đã có đến vài chục nhà thơ trên thế giới chuyển dịch ra nhiều ngôn ngữ. Về Anh ngữ, đại khái tôi đan cử một số tên tuổi mà tôi còn nhớ: W.J.B Fletcher, Gary Snyder, H.C Chang, William Mc Naughton, Chang Yin-nan và Lewis C. Walnisley, Michael Bullock... chuyển ra Pháp ngữ như Francoi Cheng, G. Margouliès, tiếng Tây Ban Nha của Octavio Paz... chưa kể đến các ông Tản Đà, Chi Điền, Đỗ Bằng Đoàn - Bùi Khánh Đản, Đào Hữu Dương, Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương, Đào Mộng Nam...
Ở địa hạt thi ca Việt Nam thực sự một bài thơ hay tự nó đã hiển nhiên tạo một chỗ đứng rạng rỡ trên thi đàn và trong lòng người ngưỡng mộ. Đã gần trăm năm sau chúng ta đọc Đoạn Trường Tân Thanh thấy vẫn thích và mới lạ, trong khi có thể chúng ta không nhớ được một bài thơ nào của một vài thi sĩ thời thượng sáng tác thơ mới đầy bí hiểm hiện nay. Sự hiện hữu của trái đất đã có hơn 4.5 tỷ năm mà cây lá suối nguồn vẫn mới lạ. Thiên nhiên, tình yêu, quan niệm nhân sinh vẫn là đề tài bất tận. Ông cha ta đã dùng lúa gạo thổi thành cơm nuôi sống từ hơn bốn ngàn năm, cũng lúa gạo đó chúng ta chỉ nên thay đổi cách nấu hay phương tiện hiện đại hơn là dùng than củi. Tính chất nguyên ủy là hồn thơ không nên triệt hủy.
NMT: Có phải cung cách bí hiểm, suy nghĩ phức tạp xử dụng nhiều kỹ thuật là những cung cách làm mới thơ?
TTH: Khi làm thơ mà phải chú trọng quá nhiều đến kỹ thuật, tôi nghĩ bài thơ đó sẽ mất tự nhiên thiếu hồn tính. Tuy nhiên ít nhất bài thơ được yêu thích vẫn nên có nhạc tính, tôi muốn nhắc đến vần điệu. Ví dụ như cụ Phan Khôi được ca ngợi nhà thơ mới tiền phong của Văn Học Việt Nam, trong bài Tình Già, cụ vẫn giữ vần điệu đấy chứ.
...ôn chuyện cũ mà thôi
Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi...
Đến bài thơ dễ thương của Tản Đà:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa, có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...
(Tống Biệt)
Những bài thơ của Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, Hàn Mặc Tử, Xuân Tâm, Vũ Đình Liên, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Chu Mạnh Trinh... Cần gì phải bí hiểm phức tạp, khó chuyển đạt sự xúc động của mình đến người khác.
NMT: Anh có thấy khác nhau nhiều không giữa thơ để đọc bằng mắt và thơ để ngâm bằng miệng?
TTH: Đôi khi thơ nên đọc bằng mắt để sự trầm lắng hòa nhập vào những tư duy sâu sắc của tác giả. Riêng tôi có cái khoái là khi làm xong một bài thơ ưng ý, đọc lên một mình để nghe cái âm hưởng vọng từ đáy hồn nguyên ủy. Đọc thơ hay hát thơ cũng thú vị lắm chứ. Ý anh muốn đề cập đến thơ tự do, thơ mới bây giờ và thơ ở trong khuôn khổ luật bằng trắc và nhạc tính trong thơ chứ gì? Tôi vẫn thích thơ có vần điệu hơn. Tôi thích đọc thơ hơn là ngâm, nếu hát thơ được thì quá tuyệt.
NMT: Có người nhận xét ở thơ Thái Tú Hạp, cả ở những bài thơ tự do, vần điệu vẫn được tôn trọng. Do đó, chỉ tự do ở số chữ trong câu không giới hạn thôi. Còn, nguyên chất vẫn là thơ có vần, theo anh, điều ấy đúng không?
TTH: Có lẽ ảnh hưởng từ thuở ấu thơ tôi nghe bà ngoại ru cháu bằng những câu ca dao đằm thắm êm ả giữa buổi trưa nắng hạ tĩnh lặng, những câu ca dao đó cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in trong tiềm thức, đại khái như:
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây bờ bán nguyệt cho nàng rửa chân...
...Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân...
...Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều...
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều... bà tôi đã hát thơ từ dạo đó, lớn lên đi vào cõi thơ bằng những âm điệu vang vọng trong hồn từ thuở xa xưa, đủ mọi thể loại, nhưng cho dù, ở thơ tự do tôi cũng đều chú trọng đến vần điệu.
NMT: Anh làm thơ nhiều bài có ý tưởng Phật Giáo và phong vị thiền. Có phải vì chán cuộc sống này hay tìm được một ý hướng nào hay từ đề tài nói trên?
TTH: Thưa anh, tôi xin đưa vấn đề xa hơn một chút. Thời Trung học nhà tôi gần ngôi Chùa cổ Hội An. Tôi thích cái không khí tĩnh mịch, yên lặng, nên hay rủ bạn bè vào chùa ngủ những đêm trăng sáng. Tiếng chuông khua trong chiều cô liêu, sân chùa thoảng mùi hương ngọc lan, mùi trầm hương từ chánh điện. Tôi cảm thấy tâm hồn an bình êm ả vô cùng, lòng yêu thương như giòng sông Thu tỏa rộng hòa nhập với đại dương. Nhờ thời gian lui tới nơi chốn thanh tịnh đó, tôi đã biết yêu thơ của các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Hương Hải, Không Lộ...biết những tên tuổi lừng lẫy của Đường Thi qua những tài danh lỗi lạc như Lý Bạch, Thôi Hiệu, Vương Duy, Lý Thương An, Đỗ Phủ...mới biết thế giới của André Gide, Hemingway, Kafka, Jean Paul Sartre, Nietzsche Heidegger...cho dù tôi chỉ mới đứng ở bờ mé của biển học mênh mông tuyệt vời đó...và đang chỉ là hạt cát ngu dốt trên bờ sông Hằng.
Tôi đã vô hình chung thẩm thấu ít nhiều hơi thở của tư tưởng Phật Giáo thế là tôi thầm lắng đi vào cõi thơ lãng đãng những mùi trầm hương và những đóa hoa sen giữa nguyệt hồ. Càng trải qua những biển dâu tang điền, tuổi càng ngất ngưỡng ở cửa tri thiên mệnh, tôi càng chiêm nghiệm lẽ vô thường, mọi hiện hữu đều sinh diệt như những ảo ảnh không thật, như huyễn hóa, như bọt sóng, như sương trên cành. Và tôi hiểu chỉ có con đường trở vào cõi tâm mới là nơi chốn an bình. Đích thực là thế giới thanh tịnh của Chân Như.
NMT: Thơ phải chân thành thì mới có xương máu cốt tủy thật. Khi anh làm thơ, có thái độ ấy không?
TTH: Anh đề cập đến thơ xương máu cốt tủy, tôi chạnh nhớ thi sỹ Bích Khê và Hàn Mặc Tử:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da...”
(Hàn Mặc Tử)
“Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã...”
(Bích Khê)
Đó là những áng thơ trác tuyệt của thế giới thơ tượng trưng của Hàn Mặc Tử và Bích Khê hai thi tài xuất chúng của nền thi ca Việt Nam tiền chiến. Chân thành đến như thế mới truyền đạt tinh túy của tác giả đến người đọc.
Riêng tôi, khi làm thơ dĩ nhiên cũng phải có sự chân thành cảm xúc mới sáng tác được chứ. Và sự chân thành đó chẳng khác nào xương máu cốt tủy để hình thành những đứa con tinh thần.
Tôi rất khó với chính tôi. Vì có một số bài thơ sau một thời gian ngắn đọc lại tôi cảm thấy chán quá nên vứt bỏ luôn. Những bài còn lại ít nhất cũng cưu mang “chút” hồn, đó chính là những “sát na” chân thành nhất mà mình bắt gặp. Với tôi làm thơ là để giải tỏa những cảm hoài, nhớ nhung và cô đơn cùng tận.
NMT: Có người đã ví von giữa hai danh từ thơ - triết học và triết học - thơ để nối liền hai phạm trù khác nhau. Riêng anh, anh thơ triết học hay triết học thơ? Xin giải thích để độc giả chia xẻ?
TTH: Thơ chuyên chở tình cảm, triết học suy diễn từ lý trí phân tích. Lớn lên trong thời điểm chiến tranh bùng vỡ ác liệt nhất từ 1960-1975, bị cuốn hút vào cuộc chiến như cơn lốc kinh hoàng. Nhiều nhà thơ Việt Nam - trong đó có tôi - đã đi tìm cho chính mình một lối thoát bằng đức tin tín ngưỡng, tình yêu, hay thái độ triết lý phản kháng đối thoại với hư vô, với sự bi thảm cô đơn không lối thoát. Làm thơ giải tỏa những tư duy với chính mình. Khác với Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Rabindranath Tagore muốn đưa triết học vào thi ca - triết học thơ - Hay những thiền sư Việt Nam từ trong cõi thơ đã ngẫu nhiên hàm chứa những tư tưởng sâu sắc của triết học - thơ triết học. Theo thiển ý nhận định - có vẻ chủ quan - của tôi, lịch sử triết học (trong phạm trù triết học Tây Phương) triết gia Martin Heidegger người Đức (1889-1976) đã đưa thi ca vào triết học như một thực thể hiển nhiên, và đặt thành vấn đề... Khi ông muốn khai triển cái bề sâu thẳm ẩn tàng tinh tế tuyệt diệu của ngôn ngữ thi ca qua tác phẩm của thi sĩ Holderlin... Riêng với thế giới thơ nhỏ bé của tôi, diễn tả theo sự xúc động của mình trước những rung động tình yêu, quan niệm từ ái về nhân sinh, về sự tỉnh thức trước thời cuộc, rất tự nhiên như hơi thở...Tôi không nghĩ với những nhạy cảm bắt gặp, ẩn dụ những tư tưởng triết lý cao xa. Đó chỉ là những hạt bụi vô nghĩa của một người làm thơ tầm thường nhất. Tính chất thơ trong triết học lại là một vấn đề khác không phụ thuộc lãnh vực văn chương thuần túy đa cảm, nó phản ảnh hồn tính dân tộc một cách sâu sắc kỳ diệu của giòng thi ca dân gian chơn chất và giản dị. Khi người nông dân ngẫu hứng đặt nên những câu hò, ca dao trên ruộng lúa chắc chắn anh ta không nghĩ nó hàm chứa những ý tứ cao xa của triết học. Ví dụ như:
...Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
...Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng...
...Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư...
...Có tiền mua tiên cũng được...
Tính chất triết học có thể do sự suy diễn qua kiến thức của các nhà học giả, những triết gia... phân tích đề cao và phong phú hóa ngôn ngữ và ý tứ thi ca của nhân gian mà thôi.
NMT: Làm thơ tình tự quê hương là một phần rõ ràng của thơ Thái Tú Hạp. Điều gì đã khiến anh xúc động để làm công việc ấy?
TTH: Thời gian phục vụ trong quân ngũ tôi có cơ may đi qua nhiều địa danh quen thuộc tại vùng I Chiến Thuật từ Khe Sanh, Ái Tử, Phá Tam Giang... đến vùng A Shaut A Lưới, Thượng Đức, dãy núi Sơn Gà thuộc quận Đại Lộc, Trà Mi, Tiên Phước, Kỳ Sơn, Tiên Lãnh, An Điềm... tôi đã từng ngẩn ngơ trước cảnh hùng vĩ tuyệt đẹp của thiên nhiên, chưa kể những cảnh trí mộc mạc của đời sống thôn dã, hình ảnh giã gạo dưới ánh trăng vằng vặc, những cô thôn nữ tát nước bên đình làng, tiếng trẻ thơ chạy đùa trong sân trường tỏa nắng, tiếng chuông chùa hiu hắt ngân dài trên giòng sông êm đềm... Tất cả đã làm cho hồn tôi chùng xuống rung động... và tôi đã ghi lại.
NMT: Những biến cố của quốc gia dân tộc đã ảnh hưởng thế nào trong thơ của anh?
TTH: Tôi là nạn nhân và chứng nhân trước những cảnh tượng đau lòng giờ thứ 25 khi những người CS Miền Bắc tiến vào thành phố trước sự hốt hoảng của mọi người dân miền Nam. Tôi không thích bạo lực nên tôi rất xúc động trước những bi cảnh con người đối xử với con người như một loài súc vật. Có lẽ tôi ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Phật Giáo nên cho rằng dân tộc Việt Nam trả nghiệp của tiền nhân nặng nề quá. Tôi liên tưởng đến dân tộc Chàm, Hời, đến những cung điện đền tháp một thời vang bóng đã chìm sâu trong điêu tàn đổ nát. Làn sóng di tản kinh hoàng trước lửa đạn. Những nghiệt ngã đau thương trong các trại cải tạo. Những thảm cảnh khủng khiếp của thuyền nhân trên biển cả. Biến cố của thời điểm lịch sử khó mà phôi phai được trong hồn Dân Tộc. Tôi đã đưa vào thơ trung thực một số hình ảnh của bối cảnh lịch sử bi tráng đó.
NMT: Là người lính, người tù, người vượt biển và người ly hương - Anh tâm đắc ở vai trò nào nhất trong đời sống thi ca?
TTH: Hầu như ở mỗi hoàn cảnh, mỗi giai đoạn người lính, người tù, người vượt biển và người lưu vong tôi vẫn có những xúc cảm riêng biệt. Trong chiến tranh, tôi đã thường trực đối diện với những cảnh tượng khủng khiếp đầy chết chóc ở chiến trường. Chắc anh còn nhớ - Đại Lộ kinh hoàng tại Quảng Trị - hình ảnh đau lòng của cả Dân Tộc. Đến khi vào tù, chính những lớp người đã từng thể hiện tình người trong cuộc chiến dã man đó bây giờ là nạn nhân của cuộc thanh trừng tồi tệ nhất. Những đau thương nghiệt ngã trong trại tù là những hiện cảnh bi hùng xót xa. Chứng tích đen tối của trang sử sau cuộc chiến vãn hồi trên quê hương Việt Nam. Vượt biển chẳng khác nào đi vào cõi chết để tìm lẽ sống “thập tử nhất sinh”, theo tài liệu chính xác ghi nhận từ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc có đến 50% chết trên biển Đông. Cứ 1 triệu người có đến 500 ngàn thuyền nhân bỏ thây trên biển cả. Chính tôi đã nhìn thấy bốn chiếc thuyền, mỗi chiếc gần 200 người ra đi cùng thời điểm với chúng tôi ở Đà Nẵng. Khi mới ra khỏi hải phận Việt Nam đã chìm hết 2 chiếc và chiếc của tôi cũng bị gió bão đánh chìm chết 13 người, may có thuyền đánh cá HongKong ở gần đảo Hải Nam đến vớt kịp. Dĩ nhiên, những cảnh tượng đó làm cho tôi vô cùng xúc động. Đến cảnh sống lưu vong trăm ngàn đắng cay trong thân phận người tỵ nạn. Ở xứ người mà tâm tư cứ hướng về quê hương vì nơi chốn chứa chan bao kỷ niệm êm đềm. Qua những phân tích đó không những riêng tôi mà những người Việt Nam cùng cảnh ngộ - tôi nghĩ - đều đồng ý trước những bi thảm chung của dân tộc sao gọi là tâm đắc? Tôi không tâm đắc ở hoàn cảnh nào cả, mà tôi chỉ xúc động thực sự.
NMT: Anh suy nghĩ về cuộc chiến vừa qua như thế nào? Và có thay đổi theo từng thời kỳ của cuộc sống mình không?
TTH: Cuộc chiến vừa qua chẳng khác nào vết chém trong tim Mẹ Việt Nam. Với vai trò một người lính tham chiến trong bản năng tự vệ, sinh tồn nhiều hơn là mục tiêu hờn căm... uống máu quân thù..., tôi thường hay mang tâm trạng không thích chiến tranh quá độc ác, vì bom đạn nước ngoài không phân biệt anh em và đồng bào. Tôi không thích CS Miền Bắc đưa quân vào gây chiến ở miền Nam và tôi cũng không ưa gì những nhà hoạt đầu chính trị thường trực gây xáo trộn ở Thủ đô. Đã hơn 20 năm nhiều người cho rằng “lịch sử đã sang trang”, thế hệ sinh trưởng thời điểm tháng 4.75 bây giờ đã trưởng thành đang vươn tới trào lưu tiến bộ chung của nhân loại, đôi khi họ không cần đếm xỉa đến ý thức hệ Cộng sản, Quốc Gia là gì? Nhưng với chúng ta thì khác. Đau thương như vết chàm khó phai. Nhất là công việc làm báo của tôi hàng ngày, tôi phải tiếp xúc thường trực với cộng đồng, tham dự những sinh hoạt về văn hóa, xã hội, chia xẻ những tư duy với anh em cựu tù nhân chính trị còn giữ được liêm sỷ và phẩm cách người lính trong QL. VNCH đang chịu ngàn đắng cay thiệt thòi nơi xứ sở vừa định cư. Lịch sử đang còn tiếp diễn dưới những hình thức tân tiến hơn bạo lực của vũ khí. Tôi chán ghét những người đầu cơ danh vọng quên cả nguồn cội Dân Tộc, và Tổ Quốc Việt Nam thân yêu. Sống kiếp lưu đày tôi càng dị ứng chính trị vì bản chất thủ đoạn của nó.
NMT: Anh nghĩ thế nào về lằn ranh quốc cộng. Tới bây giờ, nó còn hiện hữu hay dần dần bị triệt tiêu bởi tình hình thế giới và trong nước đã biến đổi?
TTH: Theo thiển ý của tôi, chỗ đứng hiện tại mà mình đang chọn để tạm dung đã khẳng định thái độ chính trị. Nhà văn Nga Aleksandr Isayevick Solzhenitsyn đi loanh quanh rồi cũng trở về cố quốc.
Tôi nhắc lại với anh tôi không thích chính trị vì tính chất thủ đoạn, ở gần với người bạn như lưỡi dao lam thì ghê quá. Tôi vẫn mong mỏi một ngày nào đó những người Việt Nam lưu vong trên khắp cùng thế giới sẽ đoàn tụ với quê hương trong cảnh sống thanh bình và tự do thực sự. Nơi đâu có ánh sáng của tình thương lan tràn thì bóng tối sẽ tiêu tan. Tôi hy vọng như thế. Vì bản chất người Việt Nam hiền hòa và đôn hậu.
NMT: Thơ tình, theo anh có dễ làm không? Khi anh viết loại ấy, có nghĩ đến một đối tượng nào không? Chữ em có khi nào để chỉ người tình và có lúc không phải là người vợ?
TTH: Trong những tập thơ đã ấn hành hầu như có đến phân nửa đề cập đến tình yêu. Trước khi gặp nhà tôi, thơ vương vấn tình yêu vu vơ, chợt đến chợt đi ở tuổi học trò...Đến khi cá đã cắn câu...thì y như thế giới chỉ còn lại một người. Vì nhà tôi đã theo tôi suốt cuộc tử sinh, đắng cay em chịu mặn nồng em mang...Tôi đan cử bài thơ “Mùa Xuân Yêu Em” để chứng minh bất cứ thời gian, không gian nào cũng có “nhà tôi bên cạnh”. Dĩ nhiên chữ em không ngoài là “người tình trăm năm” mà tôi đã ưu ái dành tặng...
mùa xuân yêu em
dành tặng Ái Cầm
mùa xuân từ thuở yêu em
núi non xứ Quảng cũng mềm bước đi
hàng cây nẩy lộc thầm thì
nghe như giòng suối từ bi cội nguồn
mùa xuân từ độ bao dung
tiếng chung thủy ở. Tiếng đường mật vui
tiếng hờn ghen. Tiếng ngậm ngùi
tiếng đau dao cắt. Tiếng mùi mẫn yêu
lúc khuya sớm thuở quê nghèo
lúc chinh chiến lửa phận treo tuổi mình
lúc ngã ngựa. Khi tàn binh
lúc non cao vẫn trọn tình thăm nuôi
trùng dương u thảm phận người
quẩn quanh hải đảo tiếng cười đắng cay
xa rồi thác lũ trời tây
đời hư ảo thoáng chim bay cuối ngàn
đất trời thơm ngát lộc non
cho ta xuân thắm vô vàn yêu em
NMT: Anh đã thực hiện tuyển tập “Thơ Văn Hải Ngoại”. Vậy, anh có nhận xét gì về văn học VN ở hải ngoại?
TTH: Có ba giai đoạn được ghi nhận hiện tượng nở rộ Văn chương Việt Nam ở hải ngoại.
- Giai đoạn sau 75: Một số nhà thơ, văn thành danh trong nước, tiếp tục viết lách, khi đến miền đất mới định cư, thể hiện những bức xúc rã rời của tâm trạng người ly hương băn khoăn trước tương lai mờ mịt. Những tên tuổi như Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Thanh Nam, Phan Lạc Tiếp, Phạm Công Thiện, Du Tử Lê, Hà Huyền Chi, Trùng Dương, Võ Đình, Viên Linh, Nghiêm Xuân Hồng, Vi Khuê, Linh Bảo, Minh Đức Hoài Trinh, Nhất Hạnh, Tuệ Nga, Nguyên Sa, Nguyên Vũ, Thi Vũ, Lê Tất Điều, Kiêm Thêm, Lôi Tam, Mặc Đổ, Trang Châu, Cao Tiêu, Đỗ Quý Toàn, Hoàng Khởi Phong, Nhất Tuấn, Nguyễn Đạt Thịnh, Huy Lực...
- Giai đoạn thuyền nhân: Thời điểm gây xúc động lớn trên thế giới về thái độ quyết tâm rời quê hương tìm tự do bằng tất cả hình ảnh bi thảm nhất trong lịch sử hiện đại. Chúng ta ghi nhận có Mai Thảo, Nhật Tiến, Khánh Trường, Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Thái Tú Hạp, Hồ Trường An, Đỗ Tiến Đức, Nguyễn Tất Nhiên, Lê Huy Oanh, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyễn Văn Sâm, Hà Thúc Sinh, Hoài Điệp Tử, Hoàng Anh Tuấn, Tuấn Huy, Hồ Thành Đức, Tưởng Năng Tiến, Nguyễn Ngọc Ngạn, Ngô Thế Vinh, Cung Vũ, Luân Hoán, Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Huyền Không, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Đức Lập, Nguyễn Xuân Hoàng, Lâm Tường Dũ, Triều Hoa Đại, Cao Xuân Huy, Nghiêu Đề, Định Nguyên, Lâm Hảo Dũng, Thường Quán...
- Giai đoạn cựu tù nhân chính trị: Những chứng liệu xác thực, trở thành những bản cáo trạng bản chất và hiện tượng chế độ độc hiểm tại Việt Nam, qua những tên tuổi đáng tin cậy ghi nhận như Duy Lam, Hà Thượng Nhân, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Cao Mỵ Nhân, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Lâm Chương, Đặng Trần Huân, Huy Trâm, Trần Dạ Từ - Nhã Ca, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Phan Nhật Nam, Mai Trung Tĩnh, Hoàng Hải Thủy, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Chí Kham, Hoàng Lộc, Tạ Tỵ, Thảo Trường, Duy Năng, Nguyễn Thạch Kiên, Nguyễn Chí Khả, Lê Mai Lĩnh, Huy Phương, Nguyễn Xuân Thiệp...
Ngoài ra từ sau 75 ở hải ngoại, một lực lượng sáng tạo, trẻ trung với nhiều khai phá mới mẻ khởi sắc lên đến hàng trăm tên tuổi, chúng ta ghi nhận như Nguyễn Hưng Quốc, Lê Bi, Lưu Nguyễn, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyễn Thị Thanh Bình, Phạm Việt Cường, Hoàng Mai Đạt, Phan Tấn Hải, Vĩnh Hảo, Trần Trung Đạo, Trần Diệu Hằng, Nghiêu Minh, Trần Long Hồ, Lê Thị Huệ, Trần Mộng Tú, Trần Thị Lai Hồng, Lê Giang Trần, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phan Trọng Tuyến, Trần Sa, Trịnh Y Thư, Huỳnh Liễu Ngạn, nguyễn Thị Long An, Ngô Nguyên Dũng, Trần Vũ, Vũ Kiện, Võ Kỳ Điền, Ngô Tịnh Yên...và thực tình tôi không nhớ hết, tuy nhiên đáng ca ngợi hiện tượng trăm con sóng vỗ vào bờ tô điểm phong phú cho dòng văn học Việt Nam lưu vong. Điều đó chứng tỏ tinh thần yêu nước, yêu văn hóa của người Việt lưu vong trên khắp cùng thế giới rất mãnh liệt và đầy niềm tin vươn tới tương lai.
NMT: Anh có bi quan hay lạc quan khi nghĩ đến tương lai của nền văn học ấy? Sẽ hội nhập vào dòng chính ở xứ sở tạm dụng, hội nhập với dòng văn học ở quê nhà hay vẫn là một dòng riêng với đầy đủ bản sắc?
TTH: Tôi có dịp đọc một số tài liệu đề cập đến sự du nhập Phật Giáo vào xứ sở Hoa Kỳ từ hơn nửa thế kỷ trước do những nhà sư Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ trong các thư viện ở Los Angeles. Lúc đầu cũng đầy dãy sinh khí tôn giáo do thiện nam tín nữ Phật Giáo thuộc các cộng đồng Á Châu mang đến. Nhưng dần dà qua vài thế hệ chùa chiền cũng giảm thiểu và số tín đồ Phật Giáo cũng vơi đi phần nào. Ngay thế hệ con cháu chúng ta - đối tượng tiếp nhận và nuôi dưỡng - thực sự đau lòng là đã quên tiếng Việt thì làm sao đủ kiến thức đọc sách vở mang nội dung văn học Việt Nam? Khó có thể giữ bản sắc đặc thù của giòng văn học Việt Nam ở hải ngoại. Chỉ còn chút hy vọng cuối cùng chúng ta nên đầu tư tiếng Việt vào con cháu ở trong mỗi gia đình cũng như những trung tâm Việt ngữ. Cụ Phạm Quỳnh đã từng nói: “Chữ Quốc ngữ còn, nước Việt còn...” hãy cố gắng giữ nước Việt trong hồn lưu vong. Đó là chuyện nuôi dưỡng tiếng Việt. Vì nếu không biết tiếng Việt thì làm sao phát huy và bảo tồn văn hóa Việt Nam ở hải ngoại, mấu chốt của vấn đề bi quan hay lạc quan ở điểm đó. Còn chuyện hội nhập với dòng văn học ở quê nhà hay vẫn giữ một dòng riêng còn tùy thuộc ở kiến thức và nhận thức chỗ đứng trong phạm trù ý thức hệ. Khó mà suy đoán tương lai, vì thế giới thay đổi từng giây từng phút theo quỹ đạo tiến bộ chung của nhân loại. Việt Nam cũng chỉ là một con ốc trong guồng máy lớn. Biết đâu một ngày nào đó Việt Nam không còn biên giới trong và ngoài nước. Nói theo nhận định sâu sắc về văn hóa của nhà văn nổi tiếng của Pháp, ông André Malraux “văn hóa là cái gì còn lại lúc chúng ta đã quên tất cả...”
NMT: Khi chọn thơ để làm tuyển tập, anh yêu thơ của ai nhất?
TTH: Khi tôi dự tính thực hiện tập 1 Tuyển Tập Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại, tôi hoàn toàn không vì định kiến, bỏ quên những tài thơ, những nhà văn xuất sắc. Cho đến nay tôi vẫn giữ nguyên thái độ độc lập về mọi phương diện, mọi lãnh vực. Tôi yêu quý tất cả mọi người đã đến rong chơi trong thế giới Văn chương tuyệt vời nầy. Tôi quan niệm chính chúng ta những người bạn tri âm tri kỷ đồng thuyền đồng hội cùng nghiệp dĩ mà không thương yêu lẫn nhau thì bảo ai thương chúng ta.
NMT: Và trái lại, anh ghét loại thơ nào nhất, và thi sĩ nào bị anh khó chịu nhất?
TTH: Tôi yêu những bông hoa xinh đẹp và tôi ghét những con sâu làm héo uá cánh hoa.
NMT: Anh có đọc sách vở báo chí phát hành từ trong nước. Anh có thể có một vài nhận xét?
TTH: Vài năm trước tôi có đọc “Thiên Đường Mù”, “Bên Kia Bờ Ảo Vọng” của Dương Thu Hương, “Tướng Hồi Hưu” của Nguyễn Huy Thiệp, “Thiên Sứ” của Phạm Thị Hoài, “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh, “Ly Thân” của Trần Mạnh Hảo...Thơ Bút Tre (những bài thơ đầy châm biếm chế độ), Nguyễn Duy (Tổ Quốc nhìn từ xa), Trần Vàng Sao (những bài thơ phản kháng), Bùi Minh Quốc “Đêm Chong Đèn Nhớ Lại”...Kịch có Lưu Quang Vũ “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt. Gần đây có “Marie Sến” của Phạm Thị Hoài. “Viết Cho Mẹ và Quốc Hội” của Nguyễn Văn Trấn. Tôi rất mến phục thái độ “uy vũ bất năng khuất” của những tác giả trong nước. Cũng như tôi đã từng quý mến những cây bút thép trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm do cụ Phan Khôi chủ xướng ở miền Bắc thời kỳ 1956-1957.
“Dù sợi tóc còn cứa vào nhân phẩm
Tôi còn thét to, dù khản tiếng, tàn hơi...”
“...Sét nổ, trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá...”
Cho dù không đạt thành công nhưng đã tạo nên một không khí phản ứng đáng kể lôi cuốn những nhà trí thức uy tín nhập cuộc, ánh sáng loé lên cuối đường hầm nhưng đã khích động thêm nhiều phong trào phản kháng sau đó làm cho nhà nước CSVN phải suy nghĩ.
NMT: Nếu phải so sánh hai nền thi ca, ở trong và ở ngoài, anh sẽ phân tích như thế nào để tổng hợp thành một kết luận chính xác?
TTH: Muốn tổng hợp thành một kết luận chính xác, chúng ta phải dựa trên tài liệu đầy đủ như thế mới tránh khỏi tình trạng hồ đồ kém giá trị và thiếu lương tâm của một người nhận định thuần túy văn học nói chung một cách khách quan. Muốn thực hiện được điều đó, chúng ta phải quan niệm Văn chương có một ngôi vị cao hơn, tuyệt đối không là phương tiện của chính trị. Chính trị chỉ có giai đoạn, Văn chương tự nó đã khai phóng bay bổng lên đỉnh cao trí tuệ của loài người. Theo tôi thơ chỉ nên mang những tuyên ngôn của tình yêu và hòa bình.
NMT: Nhà văn Mai Thảo khi nhắc đến thơ bây giờ đã tỏ ra rất bi quan vì cho rằng bây giờ văn chương đã xuống giá với sự bàng quan không chú ý tới của độc giả. Anh có đồng ý với ý kiến trên không?
TTH: Qua nhận xét của nhà văn Mai Thảo, chúng ta liên tưởng đến thi sỹ Tản Đà sinh năm Mậu Tý 1888 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, Tỉnh Sơn Tây. Cách đây hơn một trăm năm mà nhà thơ Tản Đà đã tiên tri đến hoàn cảnh văn chương ở vào thời điểm bi quan thê thảm lúc đó không khác gì hiện tình sinh hoạt văn nghệ Việt Nam nơi hải ngoại bây giờ:
...Cuộc trần thế kiếm ăn chẳng dễ
Rẻ rúng thay là nghệ làm văn!
...Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
...Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền
Văn ế bao giờ cho bán hết
Phen nầy có nhẽ gánh lên tiên!...
Kiếm sống ở cái xứ sở nầy không phải dễ, nhất là bằng đồng tiền mồ hôi nước mắt và lương thiện (Cơm áo không đùa với khách thơ). Tâm trạng chung của quần chúng lo chuyện toan tính kiếm sống đã hết thì giờ, hơi đâu theo dõi sinh hoạt văn học nghệ thuật. Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của anh Mai Thảo, đề cập đến sự thực phũ phàng đó. Mọi sinh hoạt đang như có vẻ đồng hương chúng ta đứng ngoài bàng quan một cách tàn nhẫn, nên chỉ co cụm quanh quẩn những khuôn mặt quen thuộc trong giới làng văn chúng ta thôi. Có cơ hội anh hỏi các nhà sách ở Orange County và các nhà phát hành thì biết về hiện tượng sách báo hiện nay. Có thể tôi quá chủ quan trong phát biểu của mình chăng?
NMT: Anh có nghĩ đến sự giao lưu văn hóa giữa trong và ngoài nước ở bây giờ hoặc trong tương lai? Anh có nghĩ đến ngày sách của mình được phát hành ở trong nước không?
TTH: Giao lưu thực sự phải là sự hòa hợp giữa hai chiều, như anh biết cho đến nay chỉ có sách báo trong nước xuất hiện lai rai ở hải ngoại và chúng ta thỉnh thoảng cũng dễ dãi đón nhận.... Trái lại trong nước chưa bao giờ chấp nhận một cuốn sách nào của các nhà văn lưu vong. Cuộc chơi thực sự chưa công bằng. Tôi nghĩ đến một lúc nào đó, giữa chúng ta cũng nên phá chấp, cởi bỏ những thiên kiến chính trị, vượt lên cao với ý niệm tình tự dân tộc. Lịch sử đã chứng minh bao nhiêu lần dân tộc ta đánh thắng Bắc phương, âm mưu thôn tính cơ đồ của ta, nhưng thắng rồi ta lại đem lễ vật sang cầu hòa để mưu cầu cho dân an lạc. Những trí tuệ đầy sáng tạo và tình cảm thiêng liêng của những người cầm bút trong và ngoài nước, hy vọng sẽ gặp nhau ở đỉnh thăng hoa của chân thiện mỹ. Tôi vẫn tin tác phẩm đích thực có giá trị về văn học nghệ thuật mang tư tưởng khai phóng, tự do và nhân bản cho dù trong nước hay hải ngoại chúng ta cũng nên khuyến khích như công trình bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Không cần sự tiếp tay bằng phương tiện quảng cáo, tự nó cũng đủ thẩm định giá trị văn học hữu xạ tự nhiên hương... Không ai có thể khống chế được tư tưởng.
NMT: Anh có ước mơ nhiều không? Và ước mơ ấy thể hiện thế nào trong thơ anh?
TTH: “Con người là cây sậy có tư tưởng” (Pascal). Có tư tưởng sinh ra vọng ngã, cho dù ước mơ lớn nhỏ nẩy sinh tùy từng thời kỳ theo tuổi đời trôi nổi. Khi mới biết yêu thì ước mơ có người yêu xinh đẹp và khi yêu thì ước mơ lấy người mình yêu. Trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt nhất, thơ tôi đã ươm đầy những ước mơ cho Hòa Bình sớm đến với dân tộc Việt Nam, tôi sẽ đưa vợ con đến cư ngụ tại thành phố Đà Lạt vì sau thời gian về thụ huấn tại trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt tôi đã yêu mê thành phố sương mù thơ mộng nầy. Khi đất nước vãn hồi hòa bình, tôi ước mơ sẽ đưa vợ con rong chơi từ Nam ra Bắc. Nhưng sau cơn biến động lịch sử 30-4-1975, tôi đã vào tù và sau đó vượt biển rời khỏi quê hương. Những ước mơ nhỏ bé đó thực tế không thực hiện được, nên tôi đưa vào thế giới thơ đầy tưởng nhớ trong những thi tập “Chim Quyên Lạc Ngàn”, “Miền Yêu Dấu Phương Đông” và “Hạt Bụi Nào Bay Qua”. Ngoài đời cụ thể những ước mơ khác đã đang và sắp thực hiện. Khi vượt biển tận mắt nhìn những thuyền nhân chết trên biển đông nên tôi ước mong một ngày nào đó đến xứ sở tự do tôi sẽ cố gắng lập Đàn Tràng Siêu Độ đến những thuyền nhân bất hạnh nầy, điều mơ ước đó tôi đã thực hiện vào năm 1995 khi tôi ra mắt thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua thu được một số tài chánh do bằng hữu nồng nhiệt yểm trợ, tôi dành nguyên số tiền tổ chức Đàn Tràng Siêu Độ Thuyền Nhân Và Những Chiến Sĩ Quốc Gia Hy Sinh Vì Lý Tưởng Tự Do tổ chức tại công viên Thành phố Monterey Park, California với sự tham dự đông đảo của các chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni và đồng bào. Tôi còn nuôi ước mơ nếu có một số tiền tôi sẽ kêu gọi mọi người cùng nhau thực hiện Tượng Đài Thuyền Nhân tại California để con cháu chúng ta biết đến sự hy sinh đánh đổi tự do bằng giá quá đắt trong lịch sử hiện đại. Và ước mơ sau cùng Quê hương Việt Nam sớm thanh bình, tự do dân chủ thực sự. Mọi người đều có cơm ăn áo mặc, đất nước phồn vinh.
NMT: Anh là một người khá bận rộn, vậy anh thu
xếp thời giờ thế nào để thực hiện những dự trù trong công việc sáng tác?
TTH: Như tôi đã trình bày với anh, thơ đối với tôi bây giờ như hơi thở hay nồng nhiệt hơn như “nha phiến” đối với một người đã nghiện lâu năm. Bằng mọi cách tôi phải cố gắng sắp xếp một khoảng thời gian nào đó để sống riêng cho mình. Những giây phút cõi riêng đó, tôi mới cảm thấy mình thực sự hạnh phúc. Vì đã bỏ quên tất cả những dị hợm dối trá của đời sống, trở về nơi chốn an bình tĩnh lặng nhất của tâm hồn.
NMT: Một ngày của nhà thơ Thái Tú Hạp?
TTH: Buổi sáng dậy lúc 6 giờ nấu nước pha trà, đọc qua vài trang sách mình thích. Chuẩn bị đưa con đi học và đến tòa báo ghi nhận một số tin tức mới nhất trên đài truyền hình, đài phát thanh. Chạy đi mua mấy tờ báo Mỹ như New York Times, Los Angeles Times, US Today...Về đón vợ đến mở cửa tòa báo. Cứ thế đều đặn từ thứ hai đến thứ sáu, đặc biệt thứ bảy ngủ trễ hơn một chút đến 9 giờ mới tà tà đến tòa báo. Chủ nhật có khi chương trình dành cho gia đình hoặc bằng hữu họp mặt. Nhưng vất vả nhất là từ thứ hai đến thứ tư báo lên khuôn đều phải ở lại thật khuya để theo dõi cập nhật tin tức thời sự. Cứ thế tôi và nhà tôi - Ái Cầm - điều hành tờ báo Saigon Times đã hơn 12 năm nay đều đặn như con thoi trong khung cửi. Những tình cảm mới và cũ, đến và đi, thương và ghét đã để lại ít nhiều giao động trong lòng chúng tôi.
NMT: Anh có muốn nói gì thêm với độc giả?
TTH: Hai mươi năm qua như một thoáng mây trôi vô thường như huyễn. Đã có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ trong nước và hải ngoại đi vào cõi miên viễn không vướng bận hận thù.
Hai mươi năm ta tưởng chừng như mới hôm qua rời xa quê hương yêu dấu.
Thân xác như căn nhà cõi tạm sớm muộn rồi chúng ta cũng trả về đất nước gió lửa. Hãy theo con đường từ bi của Đức Phật: Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù. Khi chúng ta còn nhân duyên đi bên nhau giữa cuộc đời đầy buồn vui nầy, xin hãy cầu nguyện trong mỗi trái tim là một đóa Vô Ưu nở thắm tình người.
Los Angeles, tháng 6.1996