NGUYỄN MẠNH TRINH
ĐỌC “HẠT BỤI NÀO BAY QUA”
TUYỂN TẬP THƠ THÁI TÚ HẠP
Hình như, ở Thái Tú Hạp, thơ và người là một. Thơ ”đánh dấu những tư duy trên mấy dặm trường trầm mặc xót xa để hòa nhập từ tiểu ngả vào đại ngã tâm lượng bát ngát bao dung của đất trời”, với phong vị thiền, với lòng yêu quê hương vô bờ như ”cuộc hành trình của mây đang chuyển hóa thành sông đổ về cố quận như một phép mầu huyền nhiệm”. Còn người, ở ngoài đời, Thái Tú Hạp là một Phật Tử thuần thành, hiền lành, vui vẻ và luôn luôn thích làm những công việc xã hội. Có lẽ, tính lãng mạn đã nối kết thơ với người, để hòa nhập làm một, tạo thành cá tính thi ca riêng biệt. Hãy thử tưởng tượng, trong hoàn cảnh nhục nhằn của kiếp tù cải tạo, vẫn có người như Thái Tú Hạp, ”Trong khu rừng mùa xuân, người lính xưa lặng lẽ, hái một đóa mai vàng, lòng nghe sầu xa vắng...”. Hái đóa mai, là nhớ đến dĩ vãng, đến những ngày tươi đẹp đã qua, để quên đi thực tại bây giờ, của nhọc nhằn chồng chất, của lao động khổ sai. Lãng mạn đã biến thành nhịp cầu, để người thơ đi qua những chông gai, với một tấm lòng luôn nở những đóa mai vàng tươi thắm...
“Hạt Bụi Nào Bay Qua”, là những bài thơ của một tâm hồn hiền hậu, đẫm mát chất thiền. Đời sống, dù ở trong bất cứ cảnh huống nào, vẫn có niềm hy vọng, dàn trãi từ đất trời, tinh đọng trong cây cỏ hoa lá. Con người, lúc nào cũng thong dong tự tại, mặc kệ mọi sự, mặc kệ dòng đời chuyển động ngoài kia. An tĩnh đã là một đặc tính của thơ Thái Tú Hạp. Rất hiền hòa, thi sĩ cũng nhẹ nhàng trong tình yêu. Như đóa hoa nở, tình yêu lớn từ những nhọc nhằn, những ngày gian khổ, những ngày của bóng đêm mờ mịt khói sương:
”... có phải không em
bao nhiêu lần trái đất quay giáp vòng sinh tử
đời mưa sa trên những ngọn núi cây già
và trên những bờ đá rêu phong
cổ xưa nào không biết tuổi
trên những sợi tóc bạc trắng mây trời
nắm cơm khoai hòa trong nước mắt
nuốt từng hạt đắng cay
lặng thầm tủi nhục
mà em đâu có hay!
như ánh nắng chiều trên hàng mộ bia
bạn bè ta ngậm ngùi thương tiếc
cũng nhòa theo bóng đêm mờ mịt khói sương
từ trong cõi ưu tư sầu muộn
thân xác ta rã rời
qua từng sát na mầu nhiệm
ôi! kiếp người hư vô
trên những chồi non vừa nẩy lộc
ta thấy đẹp như môi em
ta thấy yêu thương như đôi má hồng con
trong nắng mới...”
(Hạt Bụi Nào Bay Qua)
Đúng như nhận xét của Bùi Bảo Trúc "... Thái Tú Hạp đã đưa được vào các sáng tác của ông những hình ảnh và không khí mới, cái không khí của mùi trầm hương, của hoa huệ, hoa lan thơm ngát những trang kinh, cái không khí siêu thoát của thiền, của Phật giáo cho dù đó là lúc ông nói về cảnh rừng bên ngoài một trại tù chăng nữa”. Tôi còn muốn nói thêm một điểm, về cái tâm thức tự nhiên của một người hiền hòa, không muốn sự cạnh tranh phức tạp như Thái Tú Hạp. Đó là cái tâm thực sự của Thiền, chứ không phải là sự suy tư làm dáng, của những người luôn luôn đeo những cặp kính màu khác nhau và mặc những bộ áo khoác bên ngoài khác nhau.
Thành ra, thơ chỉ là một cách nói tự nhiên, phát xuất từ một tấm lòng yêu hòa bình, với tâm cảm hồn hậu thiết tha. Thơ không phải chỉ là những chùm từ ngữ Thiền nối kết, mà chính là, những chuổi tâm tư được trải dài theo từng ngày, từng giờ của đời sống dồn dập chuyển biến. Yên ổn, an tĩnh, có phải đó chính là mục đích của thơ Thái Tú Hạp, trong cái chuyển động đến ngất ngư của đời sống bây giờ. Lưu vong, lìa dứt khỏi cái cội nguồn của quê nhà, cái nhớ nhung hoài niệm của thi sĩ họ Thái cũng nhẹ nhàng như những ngôn ngữ rất thơ mộng và cũng rất là gợi cảm. Chúng ta hãy thử đọc một bài. ”Nghĩ Ngợi Trước Hoa”
”có phải là sắc hoa
hay chỉ là giả tướng
tâm có phải là hoa
hay mắt nhìn ảo tưởng
cũng đóa hồng sớm mai
long lanh hạt lệ biếc
giữa lòng đất nguyên khai
cội nguồn ta tha thiết
...vì tâm hoài chưa định
nên hoa vẫn còn hoa
những sắc màu giả hợp
như hạt bụi bay qua
những nụ hoa quê hương
có khi nào em thấy
những cánh rụng đau thương
trong hồn mai thức dậy ...
...từng nhánh sông lìa xa
thảo nguyên nào hiu hắt
cái tâm nào của ta
phương đời buồn không dứt!!
Thái Tú Hạp hay viết về quê hương, của miền Trung đất cày lên sỏi đá. Sống lưu lạc xứ người, quê cha đất tổ là niềm ray rứt khôn nguôi. Quảng Nam, đất của Ngũ Phụng Tề Phi, của đồng Phú Chiêm, của mỏ vàng Bồng Miêu, của lụa Duy Xuyên, của trăng Thu Bồn, của ”bờ Cẩm Kim tre lã ngọn thu vàng”, của rau Sơn Phong, Trường Lệ, của phố cổ Hội An, của núi Non Nước, của Chùa Cầu, của vườn Viên Giác, của rượu Trà Mi, của trà Kỳ Sơn, của trái Nam Trân, của mít nguồn Giao Thủy.., đã ám ảnh thi sĩ và muôn đời là đích đến để nhớ về, để hoài mong như tình yêu nồng nàn đầu đời của đứa con trai vừa lớn lên. Dù viết về tình yêu, dù viết về những nổi nhọc nhằn của ngày tháng đầy ải cải tạo, quê hương vẫn là những hình ảnh đẹp và tượng hình qua những dòng ngôn ngữ gợi cảm nên thơ. Chúng ta hãy lắng nghe nỗi nhớ của Thái Tú Hạp, nhẹ nhàng trầm lắng nhưng rất sâu rất đậm. Nỗi bàng bạc trải ra như khói sương, đã làm tâm chùng xuống và trong trí nhớ chồng chất nhiều điều kia, vẫn có giọt nắng an lành, vẫn có tịnh vắng như mặt nước hồ vằng vặc trăng soi:
”Có những buổi chiều ray rứt nhớ
hàng tre chim hót ngập hồn ta
dòng sông soi bóng mây phiêu bạt
tiếng ru ngọt lịm nắng quê nhà
hương tóc em thơm qua ngõ trúc
bàn tay quỳnh nở giữa đêm sương
ta nằm trên cỏ mơ giấc bướm
chiến bào yên ngựa - chuyện hư không
thuở ấy lòng ta hồ tịnh vắng
em về như hạt bụi vu vơ
cơn gió đìu hiu nhàu mặt nước
ta bà xa xót những trăng thơ
những buổi chiều hoang hồn viễn xứ
canh gà xao xác nhớ mênh mông
giọng ca thánh thót bên thềm nắng
chiều đứng im lìm trên ngọn phong...”
Thơ Thái Tú Hạp không phải chỉ chất chứa đầy dĩ vãng, mà, còn hướng vọng về tương lai. Làm thơ để nói với những đứa con, có phải là ngóng hướng về ngày mai, của những đứa trẻ lớn lên ở xứ người, nhưng vẫn mang tâm tư dòng máu Việt Nam
”... con sẽ lớn lên
giữa trời xanh sao trắng
thế giới giàu sang vật chất dư thừa
chuyện cung trăng không còn trong cổ tích
thần thoại Hằng Nga huyễn hoặc trong thơ
khoa học trả lời con tất cả
vũ trụ không còn xa thẳm cơn mơ
nhưng có điều ta chắc trọn đời con suy ngẫm
về màu da về đất nước quê hương
và cho dù tên con Cynthia
hay là gì đi nữa
con vẫn là cô gái Việt Nam”.
Thơ Thái Tú Hạp, dù năm chữ, bảy chữ, hay tám chữ, lục bát, cũng đều có âm vận của bàng bạc nỗi buồn, của nỗi nhớ mong rất nhẹ nhàng nhưng đeo đẳng suốt những tháng ngày đang sống. Có một lúc, thấy chữ sắc không có nghĩa, thấy lộ thảo đầu phô, và trong suy tư thấy tiền kiếp lai sanh thấy những ý tưởng rất mong manh mơ hồ nhưng lại chan chứa biết bao nhiêu điều chân thực.
”Ta về cổ tự nghe kinh
suối mây chim hót trên cành tĩnh tâm
hoa vàng xưa gặp cố nhân
sợi tơ nhân ngãi trăm năm đợi chờ
vầng trăng từ cõi nguyên sơ
hỏi nhau lá trúc thắm tờ Kim Cang
bụi nào xóa dấu sắc không
nghe chuông đại nguyện hóa thân chim trời.”
Trong đời sống bây giờ, có mấy ai yên tâm an tĩnh giữa nhịp đẩy và kéo kinh khiếp của xã hội hôm nay? Vật chất thì có lẽ cũng no đủ đối với mọi người, nhưng về mặt tinh thần thì hơi thiếu thốn và cần thiết phải làm để tâm tư trầm lắng lại. Chúng ta nghĩ gì giữa lúc kẹt xe trên xa lộ, những hàng xe cộ nối đuôi nhau khét lẹt mùi xăng và chát chúa tiếng còi xe? Chúng ta phải làm gì giữa đời sống hôm nay với tất cả ý nghĩa mong manh của nó, của những công việc nối tiếp nhau đến chóng mặt, của những lo toan miệt mài? làm thế nào để tâm tính dịu đi, để thấy cái đẹp của vầng trăng sáng, của mặt hồ yên? có phải thơ Thái Tú Hạp trong thi phẩm ”Hạt Bụi Nào Bay Qua” được viết để làm công việc làm dãn đi những sợi giây thần kinh căng gần đứt. Có một lúc nào, chúng ta sẽ ngửi được mùi thơm của cỏ thi, của mùi hoa lan hoa huệ chan hòa trong thi ảnh. Và, bước chân sẽ trở về, trên lối phố cũ, ghé lại hàng cây xưa, nghe cuộc đời chậm lại, và nghe được hương thơm quê nhà thắm đượm trên từng trang thơ. Cám ơn Thái Tú Hạp, cám ơn những trang thơ của ”Hạt Bụi Nào Bay Qua” thơ không chỉ đơn thuần là thi ca mà còn tích cực hơn, ở tấm lòng giải bày với đời và làm đẹp cho đời