NGẬM NGÙI TRỜI BIỂN
NGUYỄN CHÍ KHẢ
(Viết để tưởng nhớ đến bạn bè đã không bao giờ trở về)
Vào một buổi sáng chủ nhật, cách đây 6 tuần, trong khi ngồi đợi xe bus trên tuyến đường Bolsa-First (Santa Ana), rất tình cờ tôi được đọc “ké” cái thông báo về Đại Lễ Trai Đàn Cầu Siêu cho những người đã hy sinh vì tự do...Thông báo đăng trên tờ Saigon Times...Một cụ già người Việt ngồi cạnh ghế băng đã cho tôi mượn tờ báo, có lẽ cụ đoán tôi mới từ Việt Nam sang nên cụ nói:
— Tôi đọc rồi, ông lấy mà đọc...chắc ông mới qua, còn thèm đọc báo...
Cám ơn cụ già Việt Nam, người đồng hành cùng chuyến xe buýt - mà do tất bật và ngỡ ngàng nên khi xuống xe tôi đã quên cám ơn cụ, quên hỏi qua về cụ, nhưng tôi tin rằng cụ sẽ không giận, vì qua mấy phút ngồi bên cụ, cụ “rất là Việt Nam” - rộng lượng và nặng tình cố hương!
Trở lại với chuyện đọc báo Saigon Times, cái thông báo “đăng một cách trân trọng ở vào vị trí đầu của trang báo” đã khiến tôi chú ý. Đọc hết thông báo, tôi ngỡ ngàng trong trạng thái đầy xúc động...Xúc động vì đã từ lâu lắm rồi, guồng máy cuộc sống đã kéo tôi và bao nhiêu bạn bè còn lại ở Việt Nam phải tất bật lo chuyện áo cơm, tương lai là từng tuần, nhiều nhất là từng tháng. Lo âu nối tiếp lo âu...Trong cái vất vả ngược xuôi, chúng tôi không có cơ hội ngồi lại với nhau để nói với nhau về những tháng ngày qua, về những người bạn đã không bao giờ “trở về”, những anh em đó đã vĩnh viễn ở lại trong rừng sâu, hay yên ngủ giữa lòng đại dương trong tiếng sóng vỗ ngậm ngùi thương tiếc.
Ngay cả những ngày Tết, Lễ Vu lan, hay cái lễ của các tôn giáo khác, cuộc sống khắc nghiệt đã khiến chúng tôi gần như có lỗi với những bạn bè đã khuất - một nén hương tưởng nhớ, một lời cầu nguyện cho vong linh bạn bè được thanh thản ở “cõi xa xăm”, hình như những cái đơn giản đó cũng không có được, vì mộ chí những anh em đó đã ở tận rừng sâu hay dưới biển cả, vì gia đình họ đã tản mác, mất liên lạc, rồi thôi chỉ còn lại những tiếc thương thoáng đến vào những giây phút bùi ngùi thương nhớ đến những năm tháng nghiệt ngã nhất của cuộc đời.
Bây giờ ngồi ở đây, trên đất Mỹ, tình cờ được biết tờ Saigon Times mà chủ bút là nhà thơ Thái Tú Hạp - một người bạn cũ, một chiến hữu cũ - đã đứng ra tổ chức lễ đại trai đàn cầu siêu cho tất cả những ai “đã không trở về”.
Do sự thận trọng và do “những mất mát về ngôn ngữ” chúng tôi gần như “mẫn cảm” trước một số hoạt động xã hội trong những ngày đầu tiên trên đất Mỹ - nhưng trước việc làm của một người bạn cũ - mà trong quá khứ tôi tìm được ở anh “một tâm hồn luôn nặng lòng với bè bạn”...
Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến những anh em trong ban tổ chức đã có cùng mẫu số chung với vợ chồng anh Hạp về hoạt động xã hội...
Đã gần hai mươi năm, những người “bạn văn nghệ” của miền Trung không có dịp gặp lại nhau, riêng với Thái Tú Hạp, chúng tôi quen anh qua tình chiến hữu cộng với mối duyên văn nghệ. Quá khứ bảo đảm cho hiện tại và tạo niềm tin cho tương lai, chúng tôi tin rằng việc làm của anh Hạp và những người trong ban tổ chức, ít ra, đã nhắc nhở chúng tôi đến sự vĩnh hằng của tình người...
Có thể sẽ bị độc giả buộc cho cái tội “bốc thơm bạn bè”...Nếu có bị nghĩ như thế, chúng tôi đành chịu. Gần hai mươi năm cách xa, kể từ ngày 25-6-1975, cái ngày mà những anh em trong trại giam Vĩnh Điện bị phân tán đưa đi lao động tập trung tại cái trại tù trong thâm sơn cùng cốc của vùng núi Nam Ngãi. Anh em ở Quảng Nam - Đà Nẵng bị “tập trung” sớm nhất - ngày 5-4-1975 - Cái quận lỵ Vĩnh Điện nhỏ bé đã phải “tạm giam” đến cả hàng nghìn người...Và trong cái chật chội đó, chúng tôi có được 80 ngày gần nhau để “nhìn lại chính mình và bè bạn”.
Rời Vĩnh Điện trên những chiếc xe chở tù khi trời chưa sáng, chúng tôi từ biệt nhau trong cái vẫy tay gởi cho nhau niềm tin - Rồi thôi, là biền biệt tin nhau...
Đã có quá nhiều anh em không trở về...đã có anh em giờ này vất vả ngược xuôi trên cái thị trấn dọc theo quốc lộ 1 hoặc bươn chải mưu sinh ở các chợ trời Saigon, hay ở tận các nông trường miền Tây nguyên...Cái ước mong mỗi năm họp với nhau một lần, cái ước mơ nhỏ bé đó sao bây giờ quá lớn phải không anh em bè bạn!
Nếu như bài viết này đến tay với bạn đọc, chúng tôi ước mong nó cũng được đến tay những bè bạn cũ - những người bạn văn nghệ ở Quảng Nam - Đà Nẵng, ở Quảng Trị, Thừa Thiên, ở miền Trung nghèo khó - đến những “chiến hữu” đã có cùng chia xẻ nhau những miếng cơm cháy trong những năm tháng trong lao tù, ở Kỳ Sơn, Tiên Lãnh, Tiên Phước, An Điềm...
Trong cái yên ổn và tương đối đầy đủ trên đất khách thì những năm tháng cùng cực nhất trong đời người như một “toàn cảnh” của một cuộc hành trình, mà khi nhớ lại, nó có một từ lực rất mạnh, hút cả người ta vào cái “từ trường của quê hương” và từ một nơi xa chúng ta nhớ về đất nước với nỗi “ngậm ngùi trời biển”.