THƠ THÁI TÚ HẠP,
BẢN LỘ TRÌNH TÂM, THỨC
DU TỬ LÊ
So với những người cùng thời với ông, như Thành Tôn, Luân Hoán, Hoàng Quy, Hà Nguyên Thạch...thì, Thái Tú Hạp là người bước vào thi ca sớm nhất, và cũng có những thành tựu sớm nhất. Ngay tự những năm giữa thập niên 50, ông đã bắt đầu với những bài thơ thứ nhất đăng tải trên tạp chí Bách Khoa, khi ông mới 16 tuổi; rồi lần lượt các tạp chí khác của Sàigòn, thời điểm đó, như Mai, Nghệ Thuật, Văn Học, Văn, vân vân...Trong hàng ngũ những người trẻ tuổi thời điểm đó, Thái Tú Hạp cũng là người mau chóng bứt lìa khỏi mức khởi hành chung kia, để quan định lấy cho mình một chỗ đứng riêng. Bằng vào những lát dao ngôn ngữ, những ngọn dáo suy tư, cùng những nỗ lực vỡ bờ, Thái Tú Hạp đã tạo được cho ông một căn cước riêng, một thẻ nhận dạng, một thẻ tùy thân mang những nét đặc thù thi ca mang tên Thái Tú Hạp. Dọc theo bước trường chinh chữ nghĩa, ông cũng là người ở lại với thi ca Việt Nam trong tất cả mọi giai đoạn gập ghềnh, nhồi xóc nhất của nó.
Sinh năm 1940, tại Hội An, Quảng Nam, người cựu sĩ quan chiến tranh chính trị của QLVNCH, người cựu tù chính trị sau biến cố 30-4-75, cựu thuyền nhân, định cư tại miền Nam California từ năm 1979, tính tới giữa thập niên 90, riêng về thi phẩm, họ Thái đã cho xuất bản tất cả 6 thi phẩm. Không kể thi phẩm đầu tay Sông Thu, xuất bản năm 1962 cùng với Thành Tôn và Hoàng Quy, mỗi thi phẩm sau này của Thái Tú Hạp là một dấu mốc thi ca quan trọng của họ Thái, như thi phẩm Thèm Về, xuất bản năm 1970, Yêu Em Một Đời, xuất bản 1973, Chim Quyên Lạc Ngàn xuất bản năm 1982 và Miền Yêu Dấu Phương Đông, xuất bản năm 1987, và thi phẩm mới nhất, Hạt Bụi Nào Bay Qua, xuất bản năm 1995. Tất cả, cho thấy, họ Thái ký thác trọn vẹn cuộc đời mình cho tôn giáo thi ca. Tất cả, cho thấy, họ Thái chung thủy ở với thi ca, như ở với định mệnh đầu tiên và sau cùng của cuộc đời mình.
Phát biểu về sinh phần thơ Thái Tú Hạp, nhà văn Mai Thảo nói, cõi thơ Thái Tú Hạp là “một gắn bó sắt son và bất biến với giống nòi và, nguồn gốc do nơi những rung động ở quê nhà ngày trước, trên quê hương người bây giờ, trước sau nhất quán, không bao giờ đổi thay. Những bài thơ trong sáng, êm đềm, như có một thiền định nào đó giữa hai giòng chữ. Đó là điều tôi ghi nhận được ở tư duy Thái Tú Hạp, ở cõi thơ và ngôn ngữ Thái Tú Hạp...”.
Tuy nhiên, nếu dõi theo tiến trình sinh, diễn biến trên 40 năm thơ Thái Tú Hạp, ta sẽ thấy đôi cánh thi ca Thái Tú Hạp mỗi ngày mỗi bay bổng, mỗi vươn cao hơn, vào khoảng không mênh mông vô tận:
hãy như gương lặng hồn ta
trăm năm soi bóng trăng tà đầu non
bụi nào chao động hoàng hôn
trong vô lượng kiếp mù tăm mặt hồ
Hay:
ta về cổ tự nghe kinh
suối mây chim hót trên cành tĩnh tâm
hoa vàng xưa gặp cố nhân
sợi tơ nhân ngãi trăm năm đợi chờ
vầng trăng từ cõi nguyên sơ
hỏi nhau lá trúc thắm tờ Kim Cang
bụi nào xóa dấu sắc không
nghe chuông đại nguyện hóa thân chim trời
Thi ca, với ông, không còn là những buộc ràng, những phản ánh nhân sinh. Thi ca, với ông, không còn là những cánh cửa mở vào những vấn nạn đời thường, mà, thi ca với ông, càng ngày, càng cho thấy nó là một ngõ tương thông với trời đất, với những nguyên lý siêu hình. Trên những đường bay ngẫu hợp giữa trí tuệ và rung động, giữa ngôn ngữ (chỉ như một chiếc thuyền chở người qua sông), và nhịp điệu (chỉ như những lượng sóng vỗ đâu đó giữa vô cùng lênh đênh), thơ Thái Tú Hạp đã “đáo bỉ ngạn”. Đã tới bến bờ thức ngộ về lẽ sinh diệt, lẽ hữu hạn và vô nghĩa của kiếp người. Chính từ sự đáo bỉ ngạn kia, do nơi đạt tới bến bờ nọ, đã thăng hoa tiếng thơ Thái Tú Hạp. Một thăng hoa an nhiên, tự tại, êm và lắng như cành hoa trong tay Phật và nụ cười của ngài Ca Diếp, năm xưa...Bằng cảm nhận nào đó, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều cành hoa và nụ cười trong thơ Thái Tú Hạp hôm nay, ngay cả nơi những dòng thơ thế sự của ông nữa.
Chúng tôi đan cử bài thơ Tâm Động:
sáng mở ra hoàn vũ
hoa trúc đào đong đưa
tâm thoáng về đất cũ
rừng lá động chim khua
vườn xưa còn nguyệt hạ
giữ thơm tình cổ thư
mưa đời phai ý đá
còn chi nữa chân như
em về qua thị xã
trúc đào lẳng lơ bay
hoa sầu chia mấy ngã
trong hồn em thơ ngây
chùa quê gầy bóng mẹ
hoàng hôn ngắm trúc đào
máu về đâu trăm cõi
tim mẹ một niềm đau
kinh lặng vừng trăng khuyết
chiều tịnh mặc đâu đây
phương nào thương cố quận
cho ta về am mây
đời giạt trôi viễn xứ
núi sông khói vô thường
bụi hoen giòng mật ngữ
chiều hoang vỡ tà dương
trăm năm chừng ghé lại
cõi tạm đầy thương đau
căn nhà xưa quạnh quẽ
trong mắt sầu thiên thu
hiên trăng ngàn dặm hỏi
vườn cũ nở bông hồng
trong nhau còn hơi thở
trái tim người phương đông
tâm động trúc đào bay
gió đùa ngàn mây trắng
em qua vườn có hay
tình ta rơi giọt nắng
chương trình tác giả và tác phẩm/voa/tháng 9-97/
do Du Tử Lê phụ trách.